Mai Nở Rồi Ngoại Ơi
Chuyện viết bằng tưởng
tượng để nhớ một thời trẻ thơ ở Long Thuận và chiếc tàu đò lớn Bến Cầu Cẫm
Giang
Buổi sáng,
quanh sân nhà đã có chút nắng sớm, gài nút lại cái áo bà ba đen còn tốt, cái áo
mà từ bao nhiêu năm qua, mỗi năm bà tư Hạnh chỉ mặc một lần trong ngày đi bán mấy
chậu bông Vạn Thọ ở chợ xã ngày ba mươi tết. Đẩy cái cửa bằng miếng tôn loại lợp mái nhà, bước ra
sân, đám bông hực một màu vàng lóng lánh sương đêm thấy mà thương, bà bưng cái
thúng rách năm sáu lổ nhỏ, đặt bên cạnh rồi ngồi xuống gốc cây khô để sát cái
lu đựng nước mưa, gốc mai già cằn cỗi ở góc hiên, bông không thấy trổ từ mấy
năm qua, nay lại chen nhau mà nở đầy cành, vàng tươi phơi phới, dù hôm nay mới
ba mươi, nghỉ chút xíu, chờ anh ba Tựu, đẩy cái xe cút kít cây lớn chở nhang
đèn lên chợ bán, đi ngang qua trên đường cái, cho bà quá giang chất theo chừng
chục cái lon sửa bò làm chậu bông Vạn Thọ như thường lệ mỗi năm, bà tư lự nhìn
ra ngoài xa, con vàm giáp ngã ba sông Vàm Cỏ giờ này nước lớn, sương mù còn
giăng kín mít, âm u mờ mịt, dù phía bên ấp Bờ Vàm đã thấy mặt trời hé lên, bất
giác bà tư thở dài, cũng ở đây, cũng ngoài đầu vàm, cũng sương mù tăm tối, nhưng hôm đó mưa to gió lớn, chuyện của
hơn mấy năm trước hiện rõ trước mắt mình, bà bật khóc.
*
Huệ, đứa con gái duy nhất của bà tư, mười
một mười hai tuổi mới đi học nên học lên lớp ba lớp bốn rồi thôi, nhà nghèo, mẹ
già, nay ốm mai đau, Huệ bỏ học, đi làm người ở cho ông bà chủ tiệm hàng xén trên
chợ xã, cách ấp Bờ Vàm, đi bộ theo đường đất tắt ngang đám ruộng còi của ai đó
chừng hai ba cây số, ông bà chủ cũng tốt bụng, thấy Huệ nhỏ nhẹ siêng năng,
tháo vát và cảnh nghèo một mẹ một con tội nghiệp nên cho làm ban ngày thôi, chiều
dọn dẹp xong được về nhà. Mùa gặt năm đó, sau ngày Huệ làm ở tiệm hàng xén được
ba bốn năm, Huệ quen rồi phải lòng Đáng, người từ đâu dó trên Long Hoa, Trường
Thọ xuống làm mướn phụ gặt trong làng, khi Đáng thay đám người đi chung tới mua
mắm muối nước tương ở tiệm, Đáng cũng mồ côi cha mẹ, còn người chị lớn, không
có chồng, tu tại gia, ăn chay trường , làm công quả trong tòa thánh, Đáng theo
Huệ về nhà chào hỏi bà tư, bà thấy Đáng cũng dễ thương, tuy đen đúa nhưng ăn
nói dạ thưa, từ tốn nên chẳng la rầy gì Huệ, không lâu sau ngày về trên nhà,
Đáng đi cùng người chị xuống Long Giang xin hỏi cưới Huệ.
Cưới xong, nói cưới
cho ra cưới chứ có mấy ai là khách, có mâm cổ gì đâu, hai ba người lớn tuổi của
nhà mấy miếng đất bên cạnh, vợ chồng chú năm Thân, trưởng ấp và ông bà chủ tiệm
hàng xén chợ xã, ai cũng nghèo, người mang con cá con tôm, người mấy xấp bánh
tráng, trái thơm trái dừa cũng đủ thương cháu thương con rồi, riêng ông bà chủ
tiệm hàng xén, có chút giàu có nên cho hai vợ chồng cái mền bông, hai ba chục
chén đủa cùng mấy cái nồi cái chảo và chút đỉnh tiền. Cưới xong, Huệ theo chồng
về trên Trường Thọ, bà tư buồn lắm vì từ đây bà thui thủi một mình nhưng đành
chịu, trước sau gì Huệ cũng lấy chồng, đi xa đi gần thì cũng đi, hai vợ chồng ở
chung với bà chị, nhà cũng chỉ là mái tranh vách đất nhưng được cái là có cửa nẻo
đàng hoàng, nằm cuối rìa ấp, bên con đường đất rộng cho xe hơi xe lôi máy chạy
qua chạy lại, từ Núi Bà xuống từ LongHoa lên.
Đáng thôi không còn đi gặt lúa mướn ở
xa nữa mà theo hai ba anh trạc tuổi trong xóm, theo xe be, làm nghề đốn gỗ, chặt
cây trên Ka Tum, Thiện Ngôn gần miệt biên giới Miên, mỗi chuyến đi theo xe, hai
ba ngày mới về nghỉ hai ba hôm rồi theo chuyến khác. Chừng năm sau, Huệ sinh thằng
bé trai, Hảo, giống hệt ba nó, cả nhà tuy nghèo nhưng hạnh phúc không ít. Cuối
năm thằng Hảo vừa hơn một tuổi, sau chuyến đi theo xe be, mấy ngày sau Đáng và
mấy anh đi chung không thấy về như thường lệ, lo quá nhưng không biết làm sao,
sáng tới chiều cứ ẳm con ra đường trông trông ngóng ngóng, chờ thêm bốn năm
ngày nữa, thì những anh đi làm chuyến sau, ở ấp trong cho biết, lần đó, chiều
đang sắp xếp về thì có một toán năm sáu người, mặc đồ thường, mang súng, bắt hết
đám họ, luôn ông tài xế dẫn băng rừng về hướng biên giới, không biết họ là ai,
chắc không phải là cướp, vì toán người này không lấy gì cả, chiếc xe be với ba
thân cây lớn, cở hai người ôm còn nguyên, từ hôm đó tới hơn nửa năm sau, Đáng vẫn
biệt vô âm tín, coi như không về nữa, khóc rồi nước mắt cũng cạn, Huệ xin phép
bà chị đem con về lại Long Giang, thằng Hảo tròn hai tuổi.
Nhà thấp trước hụt
sau, mái nghiêng cửa hở, thằng Hảo chạy tới chạy lui, bập bẹ hai tiếng ngoại
ngoại thấy vui làm sao, bà Tư quên cả công việc tát đìa, bắt cua bắt còng, cái
việc mà bà đã lũi thũi làm để sống từ ngày Huệ theo chồng cho tới hôm nay, đi một
chút ra đồng ra rạch thì nhớ thằng nhỏ, cứ muốn xách giỏ xách đục về, rồi thì
bà ở nhà coi chừng cháu, trồng dưa trồng cải quanh nhà, Huệ thay mẹ chuyện
ngoài đồng, sáng đi thật sớm để chiều về sớm với con, bà con chòm xóm đã thương
đã mến từ ngày trước nên buổi chợ nào cũng bán hết, ai nấy ấp trên, xóm dưới đi
ngang, ngoài đường cái cũng hỏi lớn vọng vô “thằng Hảo thằng Hảo”, vợ chồng ông chủ tiệm hàng xén chợ xã, cũng
như ngày cưới của Huệ, thỉnh thoảng chở nhau bằng xe gắn máy xuống cho cái này
cái nọ, hộp chao hộp tương, nước muối nước mắm.
Đầu mùa mưa năm sau, năm thằng Hảo lên
ba, biết nói tên mình và kêu rõ “ngoại
ngoại má má”, một sáng trời âm u có vẻ muốn mưa như nhiều cơn mưa lớn từ mấy
ngày qua, ngoài vàm, nước lên cao hơn thường ngày, loáng thoáng vài ba cái ghe
câu đêm lờ mờ khi ẩn khi hiện, phía trong xa, miệt trời biên giới, mây đen từng
mảng một, lắc lư đong đưa, không đi cũng không đến. Còn sớm, dân trong ấp chưa
có mấy ai ra đồng hay lên chợ, nói sớm là trời sớm chứ hai mẹ con Huệ thức dậy
trễ, bà tư đã lùi mấy củ khoai lang chín từ lâu chờ, thằng Hảo chạy ùa ra “ngoại ngoại”, bà kéo nó vào ngồi sát bên
mình trên góc cái giường tre, bẻ khoai lang đút, thằng nhỏ cười ngặt nghẽo, Huệ
lui cui sắp cái đục, cái giõ tre, chuẩn bị đi tát đìa như mọi ngày, ngoài đường
cái đầu ấp đã có tiếng người gọi nhau.
Bất chợt, thình
lình, mây xám xịch kéo về xuống thấp, phủ cả một vùng mấy ấp bìa bờ vàm tối đen
như mực, mưa cũng theo đó trút xuống như thác, gió nổi lên, giông kéo tới rít từng
tiếng rợn người, bão tới, cơn bão từ hướng biên giới Miên đổ ập xuống, quét
ngang làng, cùng một lúc nước sông Vàm Cỏ dâng cao, cuồn cuộn tràn lên, ngập
lai láng cả vùng, sức nước sức gió thổi sập nhà cửa, cuốn trôi đi những gì mà
nó chảy ngang qua, theo chiều ra sông cái, gió cứ rít, tiếng người cứ la cứ
hét, một hai tiếng đồng hồ sau bão đi qua rồi, đất trời cứ gầm gừ như vậy cho gần
tới trưa, vẫn còn mưa xối xả, lúc này dân trong làng trong ấp phía trên cao mới
đổ xô gọi nhau đi tìm người tìm vật, tìm trâu tìm bò, kẻ chèo ghe người chèo xuồng,
từng nhóm hò hét trên cả một vùng biển
nước nước mênh mông, không biết bờ biết bến, cứ chèo cứ bơi, gần như cả một ấp
Bờ Vàm, chỗ bà tư Hạnh ở, không còn một căn nhà nào sót lại.
Mưa dứt, nước tạm
rút đi , mấy cây xoài hoang cao ngất dọc theo bờ vàm giờ mới thấy chút ngọn,
chút lá, chiều xuống, trời ửng sáng lên chút đỉnh, ghe xuồng đi tìm người lục đục
kéo về, mang theo một số người may mắn sống sót trong đó có bà tư Hạnh cùng với
mười mấy xác chết trôi, họ tụ tập trên khoảng đất gò cao, trước nhà trụ sở ấp,
ông trưởng ấp và mấy người lớn tuổi phụ kiểm lại dân trong ấp ai còn ai mất,
tính ra thì đã nhận diện đủ, chỉ trừ hai mẹ con Huệ, bà tư Hạnh lạnh cóng, xanh
xao như tàu lá nằm thoi thóp, quấn trong cái mền cũ, không nghe được người ta
nói gì. Sau đó, tại nghĩa địa xã, ngoài những nấm mộ có người, dân ấp Bờ Vàm
cũng đào sơ hai cái huyệt trống, một lớn một nhỏ, dựng bia đề tên Huệ, Hảo, hai
ba ngày sau, người đi câu bên Long Chữ tìm được xác Huệ nằm kẹt ở một xẻo đầu
con rạch cùn khô cạn nước, dân ấp Bờ Vàm nhờ chiếc xe lam quen trên chợ xã, đem
Huệ về, chôn dưới cái mộ mà họ đã để trống không chờ, ông trưởng ấp cùng bà con
quen phụ nhau cất lại cho bà tư Hạnh căn nhà tranh nhỏ trên miếng đất cũ, bà tư
khóc cả mấy ngày, nhưng rồi cũng nguôi ngoai, bà lặng lẽ ra vào, cái bàn thờ
người ta đóng giùm bằng cây tạp, cũng có cái ly bể cắm nhang nhưng hình hai mẹ
con là hai tấm giấy học trò, được một cậu học trường trung học tỉnh, con nhà ai
đó ở ấp trên, về nghỉ hè vẽ giùm, vì trong nhà bà tư có tiền đâu mà chụp hình, tuổi
già theo ngày tháng đi qua, rồi một mình bà lầm lũi, tìm quên qua việc trồng
bông Vạn Thọ bán mỗi năm khi tết đến.
Cũng lúc giữa cơn bảo, mưa cuồng gió nổi,
chiếc ghe tam bản của một cặp vợ chồng còn trẻ, chở mướn dừa khô từ Bến Cầu ra,
trên đường về Cai Lậy, vừa ngang qua cũng bị sóng đánh trôi, gió cuốn theo
giòng nước lũ, ghe lắc lư muốn chìm nhưng còn may, bị luồng nước xoáy ngang đẩy
chiếc ghe kẹt vào giữa khúc rạch cùn đầy rể dừa nước dưới tàng ngọn đám cây
cao, không ra không vô, cứ ở đó chòng chành, nhấp nhô xuống lên theo mặt nước
mênh mông. Tối tăm mặt mũi, hai vợ chồng hì hục tát nước ra khỏi ghe, chưa kịp
định thần, quay ra, chị vợ hớt hơ hớt hãi, gọi chồng, trố mắt chết trân nhìn, trên
mảng lục bình lớn cở hơn nửa chiều dài chiếc ghe, rậm đặc đầy bông tím, cao khoảng
tới nửa người, trôi tấp đụng vào ghe, có thằng bé chừng hai ba tuổi, nằm bất động,
co quắp trên cái liếp tranh sũng nước, chị vụt bật đứng dậy, vội vã bước qua,
kéo thằng nhỏ qua, lẹ ẳm nó lên, trở lại ghe đem vào trong khoang, mặt thằng bé
trắng bệch, anh chồng chun vào, quơ cái mền cái áo treo lủng lẳng, chờ chị lấy
hộp dầu cù là hiệu con cọp, xoa ngực, xoa bụng, chỗ nào không cần biết, anh quấn
trùm nó, để nó nằm nghiêng người một bên, chị lấy tay vỗ nhè nhẹ vào lưng, hai
vợ chồng nhìn nhau rồi nhìn ra biển nước mênh mông, lắc đầu ngơ ngẫng.
Mưa ngưng rồi nhỏ dần,
gió thôi thổi mạnh, nước không còn cuồn cuồn chảy xiết như trước, thằng bé tỉnh
dậy cũng khá lâu, nó bập bẹ “má má”,
chị lấy mớ cơm nguội trong nồi đất, nhay nhuyển từng miếng nhỏ, đói quá, nó ăn
hết miếng này miếng kia, chị không kịp đút, nhìn nó ăn, chị thở dài. Anh chồng
trèo lên mấy tàng cây cao, gở chỗ mắc kẹt đầu ghe ra, lấy sào chống ghe
xoay đầu ra sông cái, lần xô mảng lục
bình xa ra, chạy lại sau bẻ bánh lái, ghe theo chiều nước chầm chậm xuôi dòng, ra
khỏi đó cũng khá xa, anh chồng cho nổ máy chạy. Ghe chạy cũng khá lâu, sông
khúc dưới này đứng im, xế chiều, trời miệt Thạnh Đức còn chút nắng, hai vợ chồng
quyết định tấp vào bờ, neo ghe ngay cái cầu cây, trên là cái chùa Bến Đình cũ kỹ,
mái ngói rêu phong, nằm lẻ loi, xa khu chợ xã. Tội nghiệp thằng nhỏ, hai vợ chồng,
cũng kiếp nghèo, chở mướn, không nhà, sống trên ghe từ ngày lấy nhau, khi thì Hậu
Giang, Kiến Phong Cao Lãnh, khi thì Bến Đáy Trà Vinh, Bến Tranh Cai Lậy, cuộc sống
cũng bấp bênh, biết làm sao mà lo cho thằng nhỏ, cho nên hai vợ chồng quyết định,
đem nó trao lại cho chùa, nhờ ở đây người ta liệu có cách giúp tốt hơn.
Ông sư già, cùng bà
bảy Diện, người từ giữ chùa cũng khá lớn tuổi, nhà trên chợ xã, ngồi nghe chuyện
xong, ai nấy cũng sụt sùi nhìn thằng nhỏ, tội nghiệp nó ngó qua ngó lại, hết
người này tới người kia, bà từ bỏ lên chánh điện, thấp nhang rồi trở lại chờ
ông sư dặn gì đó. Hai vợ chồng từ giã, ông sư và bà từ ẳm thằng nhỏ theo tiễn tới
dưới cầu, chiếc ghe tam bản tách bờ ra giữa dòng, chị vợ nhìn lên chùa, mắt đỏ
hoe, ghe chạy một khoảng xa, tiếng chuông chùa lễ chiều vẫn còn ngân dài văng vẳng.
Đêm đó, bà từ đem thằng nhỏ về nhà mình, tắm rửa, cho ăn cho uống xong, thằng
nhỏ giờ miệng nói thêm hai tiếng “ngoại
ngoại”, vỗ nó ngủ, dưới ánh đèn leo lét đêm bà gục gặc đầu “Hảo ơi thôi con ở với bà luôn”.
*
Trời quá giữa trưa lâu rồi, chiếc tàu lớn chở
khách từ Bến Cầu qua Cẫm Giang vẫn chưa qua tới, trời có nắng nhưng gió mát, đi
tới đi lui chờ người quen từ bên đó qua cũng hơi sốt ruột, và cũng cảm thấy mỏi,
ông sư già bước vào cái quán ngay trên đầu dốc, đường xuống bờ sông, ngồi nghỉ
chân, bên cạnh, cùng cái bàn, một người đàn ông trạc trên dưới năm mươi đứng
lên, chấp tay xá chào, ông sư già mĩm cười, hỏi qua hỏi lại vài câu, ông là người
ở Long Giang, cũng đang chờ tàu về Bến Cầu, nghe Long Giang, ông sư già bất chợt
nhớ chuyện lần bão lụt năm đó, năm mà hai vợ chồng có chiếc ghe tam bản chở dừa
mướn, ẳm thằng bé ba tuổi lên chùa, giờ tính ra nó chắc cũng hơn sáu tuổi, ông
kể cho người đàn ông nghe chuyện, vừa hết thì tàu lớn Bến Cầu qua tới, cả hai
cùng đi xuống cầu, ông sư già đón người quen, người đàn ông trước khi xuống tàu
ngược về Long Giang, quay hỏi lại lần nữa “thưa
thầy, hồi nãy thầy nói thằng bé tên Hảo hả thầy?”.
*
Chợ xã trưa ba mươi, người trong làng cũng
mua mua bán bán như tết mọi năm, bà tư Hạnh kéo cái khăn quấn đầu xuống, lau
chút mồ hôi rịn trên trán, nhìn mấy chậu bông Vạn Thọ còn lại, bà gật đầu cười
thầm “vậy bán cũng được gần hết rồi”,
rồi sửa lại thế ngồi bệt trên tấm ni –lông, đếm số tiền vừa có được, chăm chú ngó
qua phía xa bên kia, gần cửa nhà lồng chợ, chỗ bán nhang đèn của anh ba Tựu,
con nít người lớn chen lấn chung quanh đông nghẹt, bà cứ như vậy khá lâu tới chừng
quay lại, phía sau lưng, chú năm Thân, trưởng ấp, bà bảy Diện, bà từ giữ chùa Bến
Đình và thằng Hảo trong bộ quần áo thơm mùi vải mới, với cái túi xách vải lớn,
nằng nặng đứng chờ nhưng không ai nói gì từ nãy giờ. Thấy thằng nhỏ, bà tư bỗng
dưng bật khóc, thằng Hảo cháu bà, nếu còn sống chắc cũng cở này, bà bảy Diện chắc
hiểu nổi lòng người nên bật khóc theo, bà bảy kéo tay thằng Hảo ngồi xuống sát
bên cạnh bà ngoại nó, cứ khóc mà không nói được lời nào, chú năm Thân, mắt cay
xé, rưng rưng ngồi bệt trước mặt ba người, người đi chợ lại qua, thấy ông trưởng
ấp tiếng hỏi tiếng chào rồi thôi, chú năm Thân chậm rãi kể lại, chuyện từ hôm gặp
người đàn ông trên ấp trên, người đã gặp ông sư già ở bến tàu Cẫm Giang đến lần
chú âm thầm đi Thạnh Đức gặp ông sư, bà bảy Diện và thằng nhỏ Hảo.
Bà tư Hạnh, nâng
niu đôi bàn tay thằng nhỏ, nghe mà tan nát cỏi lòng, thằng Hảo chắc đã hiểu được
chuyện, nó quay qua ôm chầm lấy bà, gọi “ngoại
ơi ngoại ơi”, rồi khóc theo. Chợ thưa dần, bà bảy Diện bùi ngùi chào từ
giã, bà tư Hạnh chấp tay xá lạy mấy cái “cám
ơn bà cám ơn bà”, chú năm Thân đứng chờ, đưa bà bảy ra bờ sông, quá giang
chiếc ghe lớn chở lu khạp xuống Hậu Nghĩa về Thạnh Đức, bà ôm thằng Hảo, thật
lâu mà không nói được tiếng nào, bà và chú năm Thân bỏ đi một khoảng xa, thằng
Hảo ngó theo, khóc gọi “ngoại ơi ngoại
ơi”, bà bảy Diện nghe, buồn lắm, nát lòng nhưng không lòng nào nhìn lại, cứ
đi mà rấm rứt. Chợ tan, chậu bông Vạn Thọ còn bà tư đưa cho anh ba Tựu làm quà,
hai bà cháu nắm tay nhau đi bộ theo đường lộ đất về, trời lưa thưa vài ba vạt nắng
muộn, có tiếng trống tập múa lân trên đình sớm hơn mấy bữa trước.
*
Bà tư mồi miếng lửa trong cái lò làm bằng
mấy cục gạch bể, đốt ba cây nhang, đưa tay run run rờ qua rờ lại tấm hình Huệ, lâm
râm khấn gì đó, gở tờ giấy học trò hình thằng Hảo xuống, nhấc tấm hình Huệ
nhích ra giữa bàn thờ rồi bước ra trước sân, ngoài đó thằng Hảo đang ngắm nghía
gốc mai già đầy bông vàng hực, nó biết là bông mai vì đã thường quanh quẩn theo
bà bảy Diện cắt tỉa lá cành cụm mai lớn dưới cổng chùa Bến Đình những ngày trước
tết, nó quay lại phía gốc mai, tay thì chỉ miệng thì nói lớn “mai nở rồi ngoại ơi”, bà tư cười thật ra
cười, cái cười mà từ hôm mưa bảo đó bà chưa hề có, bà kéo thằng Hảo lại, hai bà
cháu ngồi xuống gốc cây khô để sát cái lu hứng nước mưa, xoa đầu nó “ừ năm nay mai nhà mình nở rồi con” rưng
rưng muốn khóc.
Thuyên Huy
Tết Kỹ Hợi 2019
No comments:
Post a Comment