Đi nhận
xác Thầy
Kính dâng hương hồn các vị Giáo Sư Đức Quốc:
Giáo Sư Gunther Krainick và Phu Nhân-Thạc sĩ Y Khoa Đại Học
Greifswald 1943 -Thạc sĩ Y Khoa Đại Học Freiburg 1951
-Giáo Sư Nhi Khoa Đại Học Freiburg 1954 -Giáo Sư Nhi Khoa Đại Học Y Khoa Huế
-Giáo Sư Nhi Khoa Đại Học Freiburg 1954 -Giáo Sư Nhi Khoa Đại Học Y Khoa Huế
Giáo Sư Raymund Discher-Giáo Sư Bệnh Lý Nội Thương Đại Học Y
Khoa Huế
-Trưởng Khu Bệnh Lý Nội Thương Đại Học Y Khoa Huế
-Trưởng Khu Bệnh Lý Nội Thương Đại Học Y Khoa Huế
Bác Sĩ Alterkoster-Phụ Tá Giáo Sư Bệnh Lý Nội Thương
-Bác Sĩ thường trú khu Truyền Nhiểm
-Bác Sĩ thường trú khu Truyền Nhiểm
…là những vị đã đóng góp công lao và tâm trí rất nhiều vào việc khai
sáng Đại Học Y Khoa Huế…
Những vị, với lương tâm chức nghiệp cao quí và lòng vị tha vô bờ đối với
bệnh nhân, đã mãi là gương sáng của chúng tôi.
Những vị đã bỏ mình nơi quê người vì tâm hồn bác ái và tình nhân loại
(Tết Mậu Thân 1968)
Bộ
trưởng Bộ Giáo dục VNCH Tăng Kim Đông gắn huân chương lên các quan tài của bốn
bác sĩ người Đức bị VC thảm sát ở Huế trong dịp Tết Mậu Thân 1968
Giáo Sư – BS. Günther Krainick và Phu Nhân
Lần giở những trang trân trọng
đầu tiên của cuốn luận án Y Khoa; nhìn tên, tước vị của các Giáo Sư người Đức,
bỗng nhiên tôi thấy lòng bồi hồi dâng lên niềm đau xót vô vàn với những tiếc
nuối khôn nguôi. Những thương yêu, kính mến, với biết bao kỷ niệm và lòng tri
ân với các vị; đã vì thiện tâm, chấp nhận hy sinh, xa gia đình, xa bạn bè, xa
tổ quốc thân yêu, để đem sở học và nguyện ước của mình, đi truyền rao để khai
hóa tận một xứ sở kém mở mang, xa xôi hẻo lánh, đầy dẫy hiểm nguy, ở tận bên
kia bờ Đại Dương. Ước nguyện của quí vị thật dễ thương và hiền hòa là làm sao
tạo dựng những bác sĩ Y Khoa tài năng, để đem sở học phục vụ bệnh nhân, phục vụ
con người, phục vụ Y đạo ở ngay xứ sở họ.
Thế nhưng, những hy sinh cao
quí, từ những con người nhân ái đó, đã bị trả một giá quá đắt – bằng chính mạng
sống của họ – bởi những tên cộng phỉ xâm lược man rợ đầy thú tính từ phương
bắc; đã lạnh lùng và tàn nhẫn ra lệnh thủ tiêu họ, không một chút tiếc thương,
trong biến động do chính bọn chúng gây ra, trong lần bọn xâm lược này tấn công
xâm chiếm cố đô Huế; trong dịp Tết Mậu Thân 1968.
Hạ tuần tháng 4, năm 1968.
Khoảng gần hai tháng, sau Tết
Mậu Thân, cố đô Huế đã được Quân Đội VNCH tái chiếm (25 tháng 2 – 1968 dựng lại
cờ tại kỳ đài chính của cố đô Huế)
Huế, sau những ngày bị bọn quỉ
đỏ tràn ngập, đã nhuộm máu đào tang thương và đẫm nước mắt khóc than!
Không có phường nào, xã nào,
không có xóm nào, không có gia đình nào, là không có người thân ngã gục, cha xa
con, vợ mất chồng hoặc bằng viên đạn, hoặc bằng con dao, hoặc bằng cán cuốc…Có
hàng loạt ngưòi bị chôn sống, sau khi bị cột thành từng “xâu người”, nối kết
lại bằng dây dừa, dây điện thoại…
-Nào Phú Thứ oán khí ngất trời,
với tiếng khóc và màu tang phủ trắng cánh đồng!
-Nào chùa Áo Vàng (Tăng Quang
Tự), nào lăng Tự Đức.
-Nào Trung Học Gia Hội, với hầm
chôn tập thể, nơi mà trường học biến thành lò sát sinh, nơi mà bọn súc sinh
“phản sư diệt tổ” Hoàng Phủ Ngọc Tường, Hoàng Phủ Ngọc Phan, Nguyễn Đắc Xuân,
Nguyễn Thị Đoan Trinh, Nguyễn Đóa, Tôn Thất Dương Tiềm, Tống Hoàng Nguyên,
Hoàng Lan, Nguyễn Thiết, Nguyễn Bé, Nguyễn Hữu Vấn, Trần Văn Linh, Lê Văn Hảo
(Chủ Tịch của “cái-gọi-là” Lực Lượng Dân Tộc, Dân Chủ và Hoà Bình tại Huế),
Thích Đôn Hậu, Thích Trí Tịnh, Thích Thiện Siêu …..
Tất cả những tên ác thú này đã
chứng tỏ bản chất khát máu, man rợ, đê hèn, tiểu nhân của bọn cộng phỉ để chôn
sống hàng loạt con người bằng xương bằng thịt với nỗi đau kinh khiếp, rợn người
mà oán khí chất ngất của họ chắc chắn sẽ đời đời theo níu chân bọn chúng và gia
đình mà đòi món nợ xưong máu ngút trời này !
-Nào Khe Đá Mài, Bãi Dâu, Tây
Lộc…, mà mỗi địa danh là một chứng tích không thể chối cãi về những tội ác man
rợ, kinh khiếp đến rợn người, gây ra bởi loài quỉ đỏ cộng phỉ uống máu người
không biết tanh !!
Huế tang thương lầy lội
Huế rách như xơ mướp!
Huế tiêu điều với tường xiêu, mái đổ
Huế với thép gai giăng mắc
Huế như mặt kẻ bị đậu mùa!!
Huế với B40, với AK47, với CKC báng đỏ,
Huế đầy nước mắt với khăn tang,
Máu đỏ tanh hôi chảy ngập đàng,
Hoa cúc, mai vàng sau chẳng thấy?
Chỉ còn hoang lạnh với ly tan?!!
Huế rách như xơ mướp!
Huế tiêu điều với tường xiêu, mái đổ
Huế với thép gai giăng mắc
Huế như mặt kẻ bị đậu mùa!!
Huế với B40, với AK47, với CKC báng đỏ,
Huế đầy nước mắt với khăn tang,
Máu đỏ tanh hôi chảy ngập đàng,
Hoa cúc, mai vàng sau chẳng thấy?
Chỉ còn hoang lạnh với ly tan?!!
Các nạn nhân vô tội đã bị bọn
sát nhân khát máu mang ra sau chùa bắn theo kiểu hành quyết KGB với một viên
đạn vào đầu. Thiếu Tá Từ Tôn Khoáng thì bị bọn chúng ra lệnh bắn nát thây với
hơn 200 viên đạn vào người !
Sở dĩ tìm được các xác chết tại
khe Đá Mài là do oan hồn của một thanh nữ Phật Tử bị bọn ác thú việt cộng thủ
tiêu để diệt khẩu, đã chết oan uổng, tức tưởi, nên đã hiển linh về báo mộng cho
mẹ đi tìm xác và đưa đẩy bà mẹ này đến khe Đá Mài.
Trong cái cảnh hỗn mang ấy, tôi
đi giữa kinh thành Huế tang thương, đổ vỡ, lạc lõng, bơ vơ, không định hướng
như bị mộng du. Tôi đi mà lòng ngậm ngùi thương tiếc như lạc mất người yêu xưa!
Tôi đi, nhìn, nghe, phân vân, bồng bềnh như đang sống trong một cơn ác mộng
khủng khiếp ! Bỗng tôi hoảng hồn vì tiếng Vespa rít lên bên cạnh, đồng
thời với cái vỗ vai làm tôi giật bắn người:
-Đã biết tin gì chưa?
Tôi định thần nhìn lại, thì ra Đặng Ngọc Hồ, tôi hỏi.
-Tin gì mà có vẻ gấp rút thế?
-Tìm thấy xác của các thầy Krainick, Discher, Alterkoster và cả xác bà Krainick nữa!
-Trời ơi, có chắc không, ở đâu?
-Nghe đâu gần chuà Tường Vân, phía trên giốc Nam Giao. Rồi Hồ nói luôn:
-Ban đầu dân họ tưởng người Mỹ, họ báo với tiểu khu. Tiểu khu liên lạc với Lãnh Sự Mỹ, thì được biết phía Mỹ tuy có thiệt hại khá nhiều, nhưng không có mất tích. Sau liên lạc với viện Đại Học mình và với Lãnh Sự Quán Tây Đức thì biết Đức bị mất tích 4 công dân: 3 nam và 1 nữ. Bây giờ thì hoàn toàn trùng khớp.
Tôi chưa kịp đình thần, thì trong tiếng còi inh ỏi, đã trông thấy Bùi Hữu Út xuất hiện như một cơn lốc trên chiếc xe gắn máy, lạng và thắng nhanh như chớp! Tôi và Hồ vừa vội vàng nhảy tránh cú lạng vừa nói cho Út biết… Đằng xa lại thấy Lê Đình Thiềng, chở Nguyễn Quang trờ tới…
-Đã biết tin gì chưa?
Tôi định thần nhìn lại, thì ra Đặng Ngọc Hồ, tôi hỏi.
-Tin gì mà có vẻ gấp rút thế?
-Tìm thấy xác của các thầy Krainick, Discher, Alterkoster và cả xác bà Krainick nữa!
-Trời ơi, có chắc không, ở đâu?
-Nghe đâu gần chuà Tường Vân, phía trên giốc Nam Giao. Rồi Hồ nói luôn:
-Ban đầu dân họ tưởng người Mỹ, họ báo với tiểu khu. Tiểu khu liên lạc với Lãnh Sự Mỹ, thì được biết phía Mỹ tuy có thiệt hại khá nhiều, nhưng không có mất tích. Sau liên lạc với viện Đại Học mình và với Lãnh Sự Quán Tây Đức thì biết Đức bị mất tích 4 công dân: 3 nam và 1 nữ. Bây giờ thì hoàn toàn trùng khớp.
Tôi chưa kịp đình thần, thì trong tiếng còi inh ỏi, đã trông thấy Bùi Hữu Út xuất hiện như một cơn lốc trên chiếc xe gắn máy, lạng và thắng nhanh như chớp! Tôi và Hồ vừa vội vàng nhảy tránh cú lạng vừa nói cho Út biết… Đằng xa lại thấy Lê Đình Thiềng, chở Nguyễn Quang trờ tới…
Bọn tôi, vội vàng làm cuộc họp
“bỏ túi” trên lề đường Trần Hưng Đạo, gần Chi Thông Tin ở chân múi cầu Trường
Tiền, bay giờ đã gãy một nhịp do đạn pháo kích của bọn cộng phỉ xâm lược từ
phương bắc – vết ô nhục do đoàn cán binh cộng phỉ bắc việt để lại, khắc một vết
nhơ sâu đậm trong lòng người dân xứ Huế có lẽ đến muôn đời sau.
Khi đó vào khoảng mười giờ
sáng, cái lạnh của những ngày đầu Xuân len lén như dao cắt vào da thịt, lại
thêm cái nắng quái của ngày Xuân, sao hôm nay lại khác thường, nó nhợt nhạt,
vàng vàng, tai tái như da của một xác chết. Nó như bàng bạc mùi tử khí của một
thành phố đang ung mủ, đã có lắm người chết oan khiên uất hận; chúng tôi chợt
nghĩ đến các thầy và thương quá là thương. Tôi đề nghị anh Hồ qua tiểu khu
hỏi lại tình hình an ninh vùng đó đã ổn chưa, rồi sau đó, chúng tôi lên xe, chở
nhau, nhắm vùng Nam Giao trực chỉ.
Một hồi sau, Tiểu Khu cho một
tiểu đội, trên chiếc xe Dodge, với vũ khí đầy đủ đi mở đường, nhắm hướng vùng
chùa Tường Vân. Anh Thiếu Úy bảo bọn tôi ngồi chờ ở ngã ba đường Nam Giao, ngã
rẽ vào chùa Tưòng Vân để chờ họ báo tin. Khoảng nửa giờ sau, viên sĩ quan trở
lại bảo tình hình an ninh an toàn, ụ không có mìn bẫy và hiện tiểu đội ông vẫn
bám sát địa hình. Đột nhiên ông buồn bã, ngậm ngùi nói:
-Quân tôi, cùng một số dân trong xóm, đang đào đất, thấy nhô lên bốn cái đầu tóc, trong đó có một đầu tóc màu bạch kim. Thật tội nghiệp quá!
Bọn tôi nhìn nhau thở dài:
-Chắc là thầy Discher rồi!
Mái tóc màu bạch kim, hơi dợn sóng của người thầy tài ba thương mến học trò, xem học trò như con, không ngừng ám ảnh tâm hồn chúng tôi đến xót xa.
Bọn tôi cám ơn viên Sĩ Quan và tất cả lên xe, nhắm hướng chùa Tường Vân trực chỉ.
-Quân tôi, cùng một số dân trong xóm, đang đào đất, thấy nhô lên bốn cái đầu tóc, trong đó có một đầu tóc màu bạch kim. Thật tội nghiệp quá!
Bọn tôi nhìn nhau thở dài:
-Chắc là thầy Discher rồi!
Mái tóc màu bạch kim, hơi dợn sóng của người thầy tài ba thương mến học trò, xem học trò như con, không ngừng ám ảnh tâm hồn chúng tôi đến xót xa.
Bọn tôi cám ơn viên Sĩ Quan và tất cả lên xe, nhắm hướng chùa Tường Vân trực chỉ.
Chùa Tưòng Vân nằm về hưóng tây
nam núi Ngự Bình (hưóng Nam Giao, từ phố đi lên), đi quá chùa Sư Nữ một quãng
xa thì rẽ phải, con đường mòn đất đỏ, thoai thoải dốc với nhiều ổ gà và nhiều
bụi rậm.
Ngôi chùa với mái rêu phong, cỗ kính, chung quanh sân rộng là những ngọn trúc la đà. Ở giữa là ngọn giả sơn Ngư Tiều Canh Độc. Xa xa, về phía dưói ruộng là hàng tre bao phủ, xanh ngắt một màu, xen kẽ mấy cây lồ ô, thân vàng có sọc xanh, dịu dàng lay động trứoc gió. Cảnh chùa tuy đẹp, nhưng bọn tôi không còn lòng dạ nào thưởng ngoạn khung cảnh nên thơ!
Ngôi chùa với mái rêu phong, cỗ kính, chung quanh sân rộng là những ngọn trúc la đà. Ở giữa là ngọn giả sơn Ngư Tiều Canh Độc. Xa xa, về phía dưói ruộng là hàng tre bao phủ, xanh ngắt một màu, xen kẽ mấy cây lồ ô, thân vàng có sọc xanh, dịu dàng lay động trứoc gió. Cảnh chùa tuy đẹp, nhưng bọn tôi không còn lòng dạ nào thưởng ngoạn khung cảnh nên thơ!
Vừa xuống xe tại sân chùa, đã
nghe tiếng cuốc xẻng và thấy vài người dân địa phưong tụm năm tụm ba, cùng một
vài anh em quân nhân đang xúm xít đào bới tận bờ hào tre, cách sân chùa khoảng
200 mét. Bọn tôi vội vàng chạy lại:
-Tội quá các anh ôi, 3 ông, 1 bà. Tất cả đều bị bắn giống nhau. Tụi việt cộng thật quá dã man, tán ác ! Tiếng một quân nhân phát biểu.
-Tội quá các anh ôi, 3 ông, 1 bà. Tất cả đều bị bắn giống nhau. Tụi việt cộng thật quá dã man, tán ác ! Tiếng một quân nhân phát biểu.
“… Trong chiếc hầm chật hẹp đó,
4 ngưòi ngoại quốc đều bị trói thúc ké, hai tay bị bẻ quặt ra sau lưng, bị siết
chặt bằng giây điện thoại truyền tin…”
Tôi vội vàng nhìn theo tay anh
chỉ, thấy ba quân nhân đang cùng một vài ngưòi dân, tay cuốc, tay xẻng, nhẹ
nhàng xúc đất và cát lên từ một chiếc hầm đào vội; bề dài khoảng 3.0m, bề ngang
khoảng 1.0m và bề cao khoảng 1.0m, vừa đủ cho thế quì thẳng đứng của một ngưòi
ngoại quốc! Trong chiếc hầm chật hẹp đó, 4 ngưòi ngoại quốc đều bị trói thúc
ké, hai tay bị bẻ quặt ra sau lưng, bị siết chặt bằng giây điện thoại truyền
tin.
Nhìn mặt họ đều bị biến dạng
thê thảm. Thái dưong trái là lỗ đạn vào, thái dưong phải là lỗ đạn ra, nên bị
phá ra toang hoát; mắt lồi hẳn ra ngoài! Đưòng đi ngọt xớt của viên dạn do
chính kẻ luôn luôn miệng trơ trẽn và lố bịch rêu rao lấy lưọng khoan hồng và
nhân đạo làm nền tảng để xử thế, đã làm méo mó, biến dạng những khuôn mặt hiền
hoà của các vị thầy chúng ta.
Các Thầy đã “được giải phóng”
bởi những tên tay sai man rợ ác ôn của cái gọi là Mặt Trận Giải Phóng Miền Nam
của bọn Bắc Bộ Phủ dựng nên ! Chúng đã đang tâm đi “giải phóng” những con ngưòi
chỉ biết đem tình thương và lòng nhân ái ra cứu chữa cho mọi ngưòi bệnh tật,
nghèo đói..
Sau đó, chúng tôi cùng nhau,
ngươi một tay phụ giúp anh em chuyển xác quí thầy lên xe của tiểu khu và đưa
vào nhà xác của Bệnh Viện Trung Ương Huế.
Cả thành phố Huế xôn xao, cả
bệnh viện xôn xao! Nhiều ngưòi đã khóc nức nở. Có nhiều tiếng khóc thầm lặng ở
khu nội thưong, phòng cấp cứu, khu truyền nhiểm, khu nhi đồng…..
-Ôi, còn đâu nữa vị Bác Sĩ
trưởng đoàn, luống tuổi, hồn nhiên, thưong yêu sinh viên, đã luôn luôn tận tụy
trong bài giảng, trong lâm sàng, suốt đêm ngày khám bệnh ở khu Nhi Đồng. Thân
mật với sinh viên, vui đùa, xem như con; chúng tôi thưòng gọi ông là Bon Papa.
Có lần, trong khi chuông reo,
chờ giáo sư đổi giờ vào giảng, chúng tôi thuờng nghịch ngợm “câu giờ”; mặc dầu
chuông reo, nhưng chưa chịu vào lớp. Tôi cùng Lê văn Mộ, Trần Xuân Thắng, Hoàng
Thế Định… đứng cheo leo trên mép thành cửa sổ lầu hai, nói chuyện phiếm. Ông đi
lại nhắc nhở: “C’est l’heure!”. Chúng tôi giả bộ không nghe,
ông vội trờ tới, nheo mắt, lo lắng mĩm cưòi nói: “N’avez vous pas peur
de tomber du ciel?” Tôi làm bộ sắp rơi từ cửa sổ đáp: “Si,
mais je veux voler dans le ciel plein de beaux nuages, mon bon papa.” Ông
vội vàng chạy lại, hai tay nhẹ nhàng nhất bỗng tôi lên, đặt xuống sàn nhà, hào
hển nói: “Oh, Il faut faire attention, mon pauvre enfant!” Bọn
chúng tôi cười sảng khoái vì câu đượ c giờ, ù chạy vào phòng học. Bon Papa mệt
nhọc theo sau!
Còn đâu những kỷ niệm êm đềm
bên ngưòi Thầy yêu quí, ngưòi đã đem hết cuộc đời tận tuỵ để phụng sự khoa học.
Lẽ ra Thầy phải về nước dưõng bệnh một thời gian, sau khi bị cơn bệnh “Japanese
Encephalitis” vật vã một thời, tưỏng như gần “đi đứt”. Tuy nhien ông đã ở lại
vào dịp Tết Mậu Thân nghiệt ngả và bọn quỉ đỏ đã bắt Thầy cùng vị phu nhân can
đảm, yêu thưong chồng, xin được đi theo để chăm sóc chồng cho đến ngày cuối
cuộc đời thì Bà cũng bị xử bắn luôn!
Xin vĩnh biệt thầy cùng phu
nhân. Nguyện cầu Thầy cùng phu nhân thanh bình trong cõi vĩnh hằng, ở nơi
không còn hận thù, ở nơi mà bọn quỉ đỏ phải lánh xa.
Bác Sĩ Raymund Discher
Ôi, còn đâu nữa, Bác Sĩ Raymund
Discher – người BS trẻ tuổi, điềm đạm và trầm tĩnh, vui tính và nhân hậu nhưng
nghiêm khắc, ngày đêm ở khu truyền nhiễm, với tương lai đang rực sáng, Nhớ lại
những “Family Party” thầy và cô thỉnh thoảng mở ra, mời sinh viên một vài lớp
đến dự trong căn apartment nhỏ ấm cúng, bên bờ sông Bến Ngự. Thầy và cô hạnh
phúc bên nhau như đôi vợ chồng mới cưói, thức ăn nhẹ, ruợu chát đỏ, vừa chuyện
trò với đám sinh viên và nghe những tấu khúc bất hủ của Mozart trong không gian
của buổi chiều đang tắt nắng, chỉ còn lại ánh đèn vàng của gian phòng ấm cúng..
Hạnh phúc của thầy cô bình yên và miên viễn đến chừng nào.
Tuy nhiên định mệnh năm Mậu
Thân đã khắc nghiệt cướp đi mạng sống của người chồng tài hoa. Thầy vừa mới đưa
vợ về nước, và đáng lẽ thầy còn được nghỉ, mọi ngưòi đều khuyên nên ở lại, nói
tình hình ngoài Huế không an ninh, nhưng thầy lại tìm đủ mọi cách ra Huế để
giảng dạy sinh viên cho kịp thời khoá biểu riêng mà thầy đã lập sẳn! Bọn
quỉ đỏ đã nhẫn tâm hành quyết thầy bằng viên đạn xuyên thái dương đầy thù hận!
Nguyện cầu linh hồn Bác Sĩ
Raymund Discher sẽ mãi mãi bình yên ở chốn vĩnh hằng.
Năm 2018, hơn 3000 người dự lễ
tưởng niệm 50 năm Bác Sĩ Alois Alteköster bị thảm sát. – Ảnh Paul Zimmermann
Ôi, còn đâu nữa Bác Sĩ
Alterkoster, ngưòi Bác Sỉ trẻ tuổi, đẹp trai, tận tâm ở khu truyền nhiễm.
Alterkoster với bộ râu quai nón đầy vẻ giang hồ của một tay hải tặc khí phách
“Le Viking”, đôi mắt xanh biếc ánh lên nét thông minh và nhân từ; nhìn chung
rất lôi cuốn và nhất định phải là một “good guy”. Alterkoster rất thân mật và
hoà đồng với sinh viên, ông thưòng rũ sinh viên lên Kim Long, Thiên Mụ ăn chè,
ăn bánh bèo .. Tướng ông rất tốt, xem qua không thể chết yểu được, ngờ đâu lại
bại dưới tay “sát thủ” của đảng và bác!
Nguyện cầu BS. Alterkoster sẽ
mãi mãi ở nơi chốn Thiên Đàng.
Tối hôm đó, chúng tôi, hầu như
tất cả các sinh viên Y khoa còn tại Huế, đều tề tựu đến bệnh viện trung ương.
Từ Đại Học Xá Nam Giao, trung tâm Xavier, trường Nữ Hộ Sinh Quốc Gia, Cán Sự Y
Tế… các bạn ở mọi nơi trong thành phố, lần lượt biết tin, tập trung tại phòng
trực bệnh viện để phân chia công việc và trực xác quí thầy, đang tạm quàng tại
nhà xác bệnh viện.
Mờ sáng hôm sau, quan tài quí
thầy được đưa lên quàn tại Toà Viện Trưỏng Viện Đại Học Huế.
Sinh viên Y khoa chúng tôi,
quần sẩm, áo chemise trắng dài tay, cravat đen; nghiêm trang vòng tay đứng
thành hai hàng, trực bên quan tài quí thầy. Những tràng hoa phúng điếu rải rác
của các Toà Lãnh Sự, các Trường, các Hội Đoàn, Đoàn Thể, các Phân Khoa
bạn… Đức Tổng Giám Mục Địa Phận Huế Nguyễn Kim Điền chủ tế.
Không khí lắng đọng, cảm xúc và
trang nghiêm. Mắt mọi ngưòi đều rưng rưng, tiếng máy quay phim đều đều, âm thanh
trầm buồn như lời nguyện cầu.
Đột nhiên, có tiếng thổn thức ở
phía cửa chính, mọi ngưòi xôn xao nhìn ra; nhiều ống kính hướng theo, ánh sáng
máy ảnh lập loè: Một thiếu nữ, trong bộ đồ đen tuyền, khăn tang trắng bịt ngang
đầu, nức nở lảo đảo tiến vào; hai tay ôm chặt vòng hoa tím – Couronne
Mortuaire – kết cườm đen có đính dãi băng màu tím với giòng chữ
trắng “To You With All My Sacred And Humble Love”… Đức Tổng
Giám Mục lặng lẽ nhìn, nét mặt ngài dịu đi. Mọi người xúc động bàng hoàng cùng
với nhiều tiếng nức nở. Ai đây? Người thiếu nữ nhẹ đặt vòng hoa trước linh cữu
của BS. Alterkoster rồi phủ phục xuống, ôm quan tài khóc nức nở!
Mắt tôi mờ đi, cảm xúc đến lặng
ngưòi; nhìn người thiếu nữ, không còn trẻ lắm, với nét thuỳ mị, đoan trang và
kín đáo, kín đáo như trong tình yêu thiêng liêng của chị, thắm thiết và buồn
như màu tím của vành Couronne mortuaire. Những giọt nước mắt xót thương chị
đang gởi cho ngưòi mình yêu vừa ngã gục trên mãnh đất của quê hương nầy. Máu
đào của anh, vô tình đã tô thắm lên quê hưong Việt Nam mến yêu của
chị! Tình yêu của hai người kín đáo và thầm lặng như giòng sông xứ Huế,
rất ít người được biết.
Ở đây, tôi xin phép chị Thảo –
vâng, người ấy chính là chị – cho tôi viết ra điều; phải chăng đó là những kỹ
niệm cao quí nhất và thiêng liêng nhất của cả cuộc đời chị; mà tôi tin rằng,
nếu mọi người biết đến, cũng sẽ làm tâm hồn họ thăng hoa, bâng khuâng và xúc
động, như khi họ khám phá ra một khu vườn hoa đầy hương sắc, kỳ bí, mong manh,
dễ vở. Họ sẽ ngạc nhiên thích thú và trân trọng giữ gìn… (Chị là chuyên
viên phòng thí nghiệm trường Y, nhưng chị thường lên thư viện để tìm sách đọc
nghiên cứu, và trò chuyện cùng chị Hường nên nhiều người cứ tưởng chị là chị
Hường, quản thủ thư viện).
Thầy
Cô và Sinh Viên Y Khoa Huế bên cạnh bia tưởng niệm các GS, BS đã bị thảm sát
trong biến cố Mậu Thân 1968.
Sáng hôm sau, hai chiếc máy bay
màu trắng bạc “Air America” đưa bốn quan tài vào phi trường Tân Sơn Nhứt. Ở đó,
ngoài phái đoàn Đại Học Y Khoa Huế, còn có phái đoàn của sinh viên Đại Học Y
Khoa Saigon chờ đón với vòng hoa phân ưu và biểu ngữ lên án bọn quỉ đỏ khát máu
xâm lược từ phương bắc đã ra tay thảm sát một cách hèn hạ và man rợ những người
làm công việc y tế, chỉ biết phụng sự khoa học và phụng sự nhân loại.
Linh cữu của bốn vị được đưa ra
phi cơ về cố quốc trên chiếc xe có bốn ngựa kéo, theo sau là 250 sinh viên Y
Khoa Huế và Saigon, đội đưa tang và đội quân danh dự của Quân Đội Việt Nam Cộng
Hòa. Sinh viên cầm biểu ngữ nói lên lòng biết ơn công lao của quí vị…
Một biểu ngữ ghi “Đại Học Huế
không quên các giáo sư người Đức”. Trước khi linh cữu được đưa lên máy bay,
nghi lễ tiễn biệt diễn ra thật cảm động. Ông Trân, Thứ Trưởng Bộ Giáo Dục và Kỹ
Thuật phát biểu: “Bao nhiêu năm, tôi đã từng tham dự nhiều buổi lễ ghi nhớ các
anh hùng hy sinh cho tổ quốc, nhưng chưa bao giờ cảm động như hôm nay, khi tiễn
biệt những người Bác Sĩ dân sự này đã chết cho lý tưởng cao cả vì tha nhân và
nhân loại.”
Máy bay rời phi đạo, cất cánh
lên cao dần và mất hút, mọi người vẫy tay tiễn biệt lần cuối, ánh mắt đỏ hoe,
mờ lệ…
Vĩnh biệt từ nay bóng dáng thầy
Tình sư nghĩa phụ sáng trời mây
Thương người viễn xứ thân tan nát
Lưu lại danh thơm với tháng ngày!
Tình sư nghĩa phụ sáng trời mây
Thương người viễn xứ thân tan nát
Lưu lại danh thơm với tháng ngày!
BS Tôn Thất Sang
Cali, ngày 22 tháng 3 năm 1991
Cali, ngày 22 tháng 3 năm 1991
No comments:
Post a Comment