Monday, March 18, 2019

Ông Thầy Bói Mù - Trần Thanh Tùng



Ông Thầy Bói Mù



Năm nay Xuân lại đến Nhớ ông Thầy Bói mù
Chợ Cà Mau năm cũ
Cùng chiếc ghe màu xanh...




Thắm thoát đã gần ba mươi năm phiêu bạt bồng bềnh nơi đất khách, cứ mỗi độ Xuân về là tôi lại nhớ tới câu chuyện đã đi qua đời tôi với một người. Tuy chỉ gặp một lần ngắn ngủi, mà tôi cứ nhớ mãi cho đến bây giờ. Tôi xin được quay lại đoạn phim của hai mươi chín năm về trước để tưởng nhớ ông Thầy Bói Mù, nay đã trở thành "người muôn năm cũ", và bác Chín Cụt, người thương binh "cách mạng giác ngộ", đã nằm lại dưới lòng đại dương trên đường vượt biển tìm tự do.

Sau bốn lần tham gia tổ chức vượt biên thất bại qua nhiều cửa biển, từ Vàm Lẻo Cổ Cò Sóc Trăng tới Gành Hào Bạc Liêu xuống tận Sông Đốc Cà Mau. Người ta thì "nhất quá tam" còn riêng tôi thì "nhì quá tứ", rồi tứ hóa... tù luôn. May nhờ người chiến hữu anh em chí cốt thương tình, cầm nhà bán cửa để chuộc "bùa" thỉnh "phép", chạy chọt theo hệ thống "tam cấp", từ cấp xã lên cấp huyện tới cấp tỉnh, nên tôi được ra khỏi trại giam với tờ giấy chứng nhận là... "gia đình có công với cách mạng"?

Trước ngày được trả tự do, người cán bộ quản lý trại giam gọi tôi lên văn phòng, nhìn vào tờ "bùa" có đóng dấu đỏ của cấp tỉnh ủy, hỏi một tràng câu hỏi làm tôi ú ớ. Anh là thành phần gia đình có công với cách mạng thì anh phải "quán triệt" đường lối của cách mạng chứ. Tại sao cách mạng vừa mới thành công thì anh lại bỏ cách mạng đi vượt biên, không những một lần mà tới ba bốn lần. Anh có biết vượt biên là phản quốc không? Tại sao anh lại có ý định vượt biên. Do bọn phản động nào ở nước ngoài móc ngoặc xúi giục anh phải không?

Sau một hồi ấm ớ, tôi chọn được câu trả lời hy vọng là tương đối "ổn" để khỏi dính líu tới tội "phản động". Tôi bị người yêu phụ bạc nên chán đời đi vượt biên cho chìm ghe chết để đừng gặp lại con người phản bội đó. Tay cán bộ cười khẩy, lên giọng sừng sộ. Lý do anh nêu ra tôi nghe có "ấn tượng" ... Lan và Điệp quá, tôi không thể "thống nhất" được. Tôi cho anh một ngày để viết bản tự kiểm và cam kết với nhà nước là anh sẽ không bao giờ tái phạm. Nếu anh còn vào đây một lần nữa, tôi sẽ đưa anh ra tòa án nhân dân để nhân dân xữ tử hình anh, anh nghe rõ chưa. Tôi cố dằn để không phải đôi co với tay cán bộ nầy, nhưng nói thầm trong bụng. Hiện thời nhân dân cả nước đang tìm cách vượt biên, cho nên nhân dân sẽ không bao giờ kết án tử hình tôi đâu.

Cuối cùng, tôi cũng được trả tự do sau khi đã viết bản tự kiểm dài hơn cái Sớ Táo Quân. Vẫn giữ vững "lập trường", nhấn mạnh lý do "bỏ cách mạng vượt biên" là tại do người yêu phụ bạc và nhắm mắt ký vào bản cam kết sẽ không bao giờ tái phạm. Vì chính tôi cũng nghĩ là mình sẽ không còn cơ hội "thứ năm", nên chẳng ngần ngại mà ký bừa ký đại để được thoát kiếp "nhất nhật tại tù". Mọi chuyện khác hạ hồi phân giải.

Trước khi trao tờ giấy phóng thích, tay cán bộ trưởng trại giam còn "hù" tôi rằng. Anh phải luôn luôn nhớ ơn cách mạng đã khoan hồng cho anh về nhà ăn Tết. Tôi sẽ báo lên tỉnh để cho công an chìm theo dõi anh 24/24, nếu anh ngoan cố tái phạm sẽ bị trừng trị thích đáng, anh nghe rõ chưa. Câu hù dọa nầy dù không biết thiệt hay giả nhưng đối với tôi có tác dụng như cái vòng Kim Cô của Đường Tam Tạng tròng lên đầu Tôn Ngộ Không để khống chế tên đệ tử ba gai trật búa.

Ra khỏi trại giam Cây Gừa lần nầy thì tôi hoàn toàn trắng tay thực thụ, thất thểu lang thang với tâm trạng bất đắc chí. Tôi mò xuống bến tàu đò Cà Mau làm phu bốc vác. Những ngày mới vào nghề bị đám "ma cũ" nện cho một màn phủ đầu, giành giựt mối mang bề hội đồng túi bụi, ngày nào tôi cũng mình mẩy bầm tím, nhưng tôi quyết dịnh dùng khổ nhục kế để tìm cơ hội vượt biên nên gồng mình chịu đòn. Tuyệt đối không cho phép mình nhớ lại những tháng năm xông pha trận mạc vào tử ra sinh của một thằng lính áo rằn ri, từng xáp lá cà với sư đoàn ba sao vàng sinh Bắc tử Nam, để quyết chí làm Việt Vương Câu Tiễn. Dần rồi cũng quen, tụi cái bang đánh riết cũng mỏi tay và tôi được hợp thức hóa sau mấy ngày liên tục chịu đấm... dù chưa có hột xôi nào vô bụng.

Thời gian sau quen nước quen cái, tôi quy tụ được vài tay nhạc sĩ "miệt vườn" trong toán bốc vác và thành lập ban nhạc "cóc ổi", nhận giúp vui cho đám giỗ đám ma đám gã đám cưới. Vì cũng sắp năm hết Tết đến, để có cơ hội nhậu... chùa, ba ngày sưng bốn ngày xẹp, sáng say chiều xỉn "mượn tửu bôi giải phá thành sầu". Tạm quên đi kịch bản dỡ dang của cuốn phim "Thuyền Ra Cửa Biển".

Câu chuyện tưởng là dừng lại ở đây, nhưng định mệnh hình như chưa muốn tôi an phận thủ thừa bằng nghề bốc vác. Một buổi sáng trời mưa tầm tã, tôi đội áo mưa qua chợ Cà Mau mua rượu mua mồi để gầy sòng nhậu. Đang bước vội qua ngang mấy quán hàng xén, tôi chợt nghe một tiếng gọi khàn khàn, yếu ớt. Cậu cậu, cậu đứng lại tôi nói cậu nghe cái nầy ngộ lắm. Tôi ngạc nhiên quay lại hướng vừa phát ra giọng nói thì nhận ra là một ông già mù ốm tong teo, quần áo rách bươm đang ngồi co ro dưới mái hiên tay cầm hai đồng xu đão tới đão lui. Tôi dừng lại, hơi ngạc nhiên và tự hỏi, ông nầy mù mà tại sao biết mình là đàn ông mà gọi mình là cậu, nhưng tôi cũng bước lại nơi ông ngồi và thấy trước mặt ông có để một chiếc mu rùa.

Tôi ngồi chồm hổm đối diện ông, thì ông chợt cúi gầm xuống và đưa tay che miệng nói thì thầm dường như sợ có ai nghe. Nếu cậu có muốn đi vượt biên nữa thì phải lựa chiếc ghe màu xanh thì cậu mới đi được. Tôi hết hồn hết vía và quay ra nhìn dáo dác xung quanh, nhưng may quá, vì trời đang mưa nên chẳng có ai ở gần bên cạnh.

Thấy ông già có vẽ hơi là lạ, tôi buộc miệng hỏi. Bác không nhìn thấy cháu nhưng sao bác biết cháu là đàn ông, và... Tôi còn đang ngập ngừng thì ông nói tiếp. Tôi chỉ cần nghe bước chân cậu đi là tôi đoán được thời gian vừa qua cậu đã te tua như thế nào rồi. Mà không sao đâu, Hoàng Thiên bất phụ hảo nhân tâm. Nhưng cậu cũng đừng nên quá chán chường mà nhậu nhẹt nhiều không tốt, hãy giữ cho thần trí tĩnh táo, và đừng quên là ngồi lâu sẽ câu được con cá bự. Nói xong ông lại cầm hai đồng xu đão qua đão lại.

Bài quá dài, phải cắt bớt

Tỉnh lại thấy đám đệ tử lưu linh biến đâu mất tiêu hết trơn, đầu tôi choáng váng như búa bổ. Tôi cố gượng dậy để đi tới quán cà phê gần đó kêu một ly trà đá chanh đường. Mồi điếu thuốc hút được hai hơi thì chợt thấy chú Bảy Honda ôm ghé lại, dáng điệu mừng rỡ khều vai tôi nói nhỏ. Trời ơi, tui kiếm em tùm lum hồi sáng tới giờ, gặp em ở đây tui mừng muốn chết. Tôi hỏi, chú kiếm cháu có chuyện gì? Chú Bảy nhẹ giọng, chuyện nầy quan trọng lắm, không thể nói ở đây được, lên xe đi, kiếm chỗ nào vắng vắng tui sẽ nói cho em nghe.
Tôi leo lên yên sau, không mấy chú ý đến câu chuyện vì đầu óc còn đang ngầy ngật. Chú rồ ga chạy qua cầu sắt, quẹo về hướng bến đò Rạch Rập, dừng lại ở một đoạn đường vắng. Chú xuống xe nhìn xung quanh rồi lấy bộ đồ "vết" ra ngồi xuống đất làm như đang sửa xe. Tôi ngồi xuống bên cạnh, chú nói thật nhỏ. Có mấy người ở trên Sài Gòn xuống đây tổ chức vượt biên. "Cá lớn" đã sẵn sàng rồi, nhưng giờ chót nhóm tài công đi dọc đường lật xe, bị thương nặng đang nằm viện ở Cần Thơ. Còn ghe hiện giờ đang đậu ở Vàm Tắc Thủ, chờ xuống đủ khách là lên đường đúng vào đêm Giao Thừa. Mấy ổng nhờ tui đi kiếm một người tài công và tài cải ở vùng nầy, nếu ai lái chiếc tàu đi Mã Lai thì mấy ổng sẽ "chung" mười cây. Cháu muốn đi không, nếu cháu đi thì chú xin cho chú một hai cây để lại cho vợ con chú, và chú sẽ làm tài cải, đi chung với cháu cùng sống chết có nhau.

Nghe xong tôi chợt tĩnh hẳn, vừa bàng hoàng vừa hồi hộp, nửa mừng nửa lo. Nhìn chằm chặp vào mặt chú Bảy như đã nhìn ông già mù ngày hôm qua, để tìm trong ánh mắt vốn đã thật thà đó một bằng chứng khả tin. Vì đời tôi chỉ còn có thể đánh một ván bài định mệnh cuối cùng nữa thôi, nếu thất bại chắc chắn sẽ đưa đến kết quả là bản án tử hình như tay cán bộ trại giam Cây Gừa nêu trong bản cam kết mà tôi đã ký.

Tôi còn đang chần chừ thì chú Bảy nói tiếp. Nhóm nầy có nhiều vàng lắm, hình như nghe nói là họ đã "mua cửa" rồi, cho nên cháu đừng lo đám công an biên phòng. Tôi hỏi, vậy còn từ Vàm Tắc Thủ ra tới cửa biển phải mất ít nhất năm sáu tiếng đồng hồ đường sông, phải đi ngang qua một đồn công an huyện nữa thì sao? Chú cho biết, đã có vỏ lãi của nhóm tổ chức đi theo dẫn đường, có rục rịch gì là họ... "chung" liền, em đừng có sợ. Thôi, lên xe đi, tui đưa em đi gặp mấy người đó, họ đang chờ tui ở bên Chùa Bà.

Bài quá dài, phải cắt bớt
Trong lúc thần kinh căng thẳng cao độ, tôi chợt nãy ra một ý nghĩ để tìm hiểu thực hư, bèn dùng kế hoãn binh và nói nhỏ. Hiện giờ ghe đậu ở đâu, anh chị có thể cho tôi coi sơ qua chiếc ghe được không. Để đề phòng bị công an gài bẫy, tôi nói thòng thêm một câu. Tôi không muốn vượt biên vì bây giờ đất nước đã thống nhất rồi, nhưng tôi có vài thằng bạn cũng là tài công ghe biển, nếu gặp tụi nó tôi sẽ giới thiệu cho các anh chị. Họ đồng ý ngay, người đàn ông vô phía sau chùa dẫn ra một chiếc xe Honda 67 chỡ hai người đàn bà và ra hiệu cho chú Bảy theo sau. Nhìn bộ dạng leo lên xe Honda khó khăn trật vuột, tôi đoán thầm đám nầy ở Sài Gòn chắc toàn dân đi "xế hộp", nên ngồi Honda rất lọng cọng. Điểm nầy làm tôi thấy hơi yên tâm được đôi chút.

Họ chạy dọc theo bờ sông về hướng Vàm Tắc Thủ khoảng hai cây số thì ngừng lại ở một quán nước và gọi mấy trái dừa tươi. Trong quán còn vài người khách ngồi đó nên người đàn ông và chú Bảy nói chuyện bâng quơ về giá cả phụ tùng xe Honda của Nhật và Trung Quốc. Thừa lúc mấy người khách kia vừa trả tiền bước đi thì họ chỉ cho tôi một chiếc ghe biển đậu phía bên kia sông. Người đàn bà nói, chiếc ghe nầy mười bốn mét, chúng tôi mua ở trên Tiền Giang, mới tân trang lại và thay máy Yanma 2 lốc. Trong đầu óc tôi lúc nầy không quan trọng lắm về chiếc ghe mấy mét hay mấy lốc, chỉ muốn coi chiếc ghe màu gì mà thôi, và tôi hoàn toàn thất vọng khi thấy chiếc ghe màu xám, viền đen.

Tôi thú thật với họ là hiện tôi còn đang mang "án treo" của cách mạng, nên cho tôi suy nghĩ kỹ lại, nhưng thật ra là tôi bị ám ảnh từ lời dặn của ông thầy mù. Nhóm tổ chức có vẻ tha thiết van nài và dùng đủ mọi lời lẽ để trấn an tôi. Nào là họ đã lót đường cẩn thận từ trên tới dưới, nào là họ đã có ăn chịu với mấy ông lớn trên Trung ương Cục. Họ chấp nhận ứng cho tôi một cây vàng để làm tin, nhưng tôi không nhận. Bởi những lý do họ đưa ra chưa đủ thuyết phục và không làm xao xuyến được tôi, vì mấy ông trên trung ương cục đối với tôi... không quan trọng bằng ông Thầy Bói Mù.

Bài quá dài, phải cắt bớt
Một ngày nặng nề chầm chậm trôi qua, mưa đã tạnh, trời nắng ráo và không khí bến tàu nhộn nhịp trở lại. Công việc bốc vác bộn bề liên tục, suốt ngày mồ hôi mồ kê nhễ nhại nên tôi quên hẳn vụ chiếc ghe màu xám. Nhưng rồi... chuyện gì đến sẽ phải đến. [img] https://i.postimg.cc/yxcSLmc7/thay-boi-mu.jpg [/img] Trưa hôm sau chú Bảy tới tìm tôi và cho biết là nhóm tổ chức cũng có đi xin quẻ xâm ở Chùa Bà, trong quẻ xâm có những điều gần trùng hợp và đồng ý chấp nhận yêu cầu của tôi. Nhưng cần phải hội ý thật cẩn thận vì công việc sơn một chiếc ghe rất nhiêu khê, không đơn giản như sơn một chiếc xe đạp. Trong khi chiếc ghe đang đậu ở một nơi có nhiều "ông đi qua bà đi lại", nếu sơn phết có thể sẽ gây chú ý của công an khu vực cùng đám công an tuần tiễu sông rạch. Còn nếu như kéo lên ụ thì càng gian nan hơn. Nhóm tổ chức giao cho tôi "đạo diễn" vấn đề sơn phết.

Chiều hôm đó sau khi đã xong công việc bốc vác, tôi phá lệ không nhậu với đám cái bang và "cáo bịnh từ rượu", cùng với chú Bảy đi gặp nhóm tổ chức tại một địa điểm bí mật để soạn thảo kế hoạch sơn ghe. Tôi bắt đầu ôn lại số kiến thức chuyên môn đã được học từ trường Quân Báo Cây Mai hồi còn trong quân đội. Thứ nhất, tôi muốn tìm hiểu chiếc ghe đậu ở bến đó là nhà của ai, làm nghề gì, đã cư ngụ tại địa phương nầy bao lâu và liên hệ với nhóm tổ chức thế nào. Thì họ cho biết gia đình nơi chiếc ghe đậu là bác Chín Cụt, một người bà con xa cư ngụ đã lâu năm tại xã nầy, là chủ vựa thu mua khô đồng khô biển để cung cấp lên thành phố. Gia đình bác Chín gồm có sáu người cũng sẽ đi chung.

Tôi bắt đầu tìm hiểu về phía công an khu vực, được biết là tay khu vực nầy không biết tên thật là gì nhưng người dân địa phương thường gọi là Hai Chiến, khoảng trên ba mươi tuổi. Con của liệt sĩ chính ủy tiểu đoàn U Minh 2 đã "hy sinh" hồi Tết Mậu Thân. Chưa có vợ, rất khoái nhậu nhẹt và đặt biệt là đờn vọng cổ rất hay, rất mê cải lương và hai bản "ruột" của hắn là bài Dòng Sông Quê Em với bài Lá Trầu Xanh của tiếng hát Phương Hồng Thủy. Đi đâu hắn cũng lận kè kè khẩu K.54 với cặp còng số 8 cồm cộm tòng teng sau lưng để "khè" những người yếu bóng vía. Mắt lúc nào cũng láo liên và thường hay ghé vựa để kiếm mua khô ngon về nhậu, đặc biệt là hắn chuyên môn mua... bằng miệng. Đây là những điểm then chốt trong phương án mà tôi cần nắm lấy để tìm cách ứng phó.

Bài quá dài, phải cắt bớt
Nhờ chú Bảy giác hơi bầm tím mình mẩy, xuống bến tàu xức dầu gió nồng nực, dán Salonpas bên hai màng tang để có lý do cáo bịnh với đám cái bang tạm nghỉ bốc vác vài hôm. Bắt đầu vẽ ra một kịch bản sơn phết. Nhóm tổ chức hoàn toàn trông cậy vào tôi và sự hợp tác của bác Chín Cụt trong vai trò "ngoại giao" với phía địa phương cùng công an khu vực.

Lần đầu tiên đối diện với bác Chín Cụt, tôi kín đáo quan sát qua tướng tá khắc khổ cơ cực, với mái tóc bạc phơ cùng giọng nói sang sảng, biểu lộ nhân cách của một người trực tính chất phác. Dù chỉ còn có một chân và dùng chân giả nhưng ông di chuyển nhanh nhẹn gần như bình thường. Ông tâm sự với tôi, ông là thương binh của quân đội cách mạng, đã từng chống Mỹ chống Tây bây giờ chống... gậy. Bị ngược đãi và đã chán ngán nồi "bánh vẽ" của chế độ, nên đứng ra móc nối với số bà con xa trên Sài Gòn để chứa chấp người vượt biên kiếm huê hồng. Chờ khi đủ điều kiện thì đưa gia đình đi luôn.

Nhờ vào cái bằng khen của Trường Chinh ký từ năm một ngàn chín trăm hồi đó, kèm theo cái huy chương chống Mỹ đã cũ sì bọc trong bao ny-lông treo trên vách ngay chính giữa nhà như hai tấm "Chiếu Yêu Kính", nên gia đình bác rất được địa phương nễ nang. Cộng với tấm bảng hiệu "Vựa Khô Chín Cụt - chuyên thu mua khô đồng khô biển các loại", nên bến của bác luôn có ghe xuồng ra vào đông đúc, bạn hàng lái buôn lên xuống tấp nập mà không ai để ý ai.

Tôi bắt đầu hóa thân thành đạo diễn và lên kế hoạch sơn ghe theo từng bước, tôi nhắn chú Bảy nói với nhóm tổ chức là tôi cần một số tiền để thực hiện công việc nầy. Họ đưa cho tôi một số tiền khá lớn, tôi giao cho chú Bảy giữ hết tiền và chỉ lấy từ từ khi cần xử dụng. Nhân hôm đó có đoàn cải lương Hương Tràm về diễn ở rạp Huỳnh Long, tôi mua mười vé thượng hạng nhờ chú Bảy chuyển cho bác Chín Cụt và dặn là ráng mời cho được tay công an khu vực đi xem cùng với gia đình bác tối nay.

Bài quá dài, phải cắt bớt

Xong chầu mì tôi chào từ giã, không quên "ga-lăng" kêu thêm mấy ổ bánh mì cùng một con vịt quay, nhờ Út Thảo mang về "thưởng" cho các anh em giàn đờn. Họ có vẻ cảm kích về thái độ hào sảng của tôi giữa thời buổi gạo châu củi quế, cả nước đang thi đua ăn độn liên khúc, do... "bao năm giải phóng như thế nầy phải không anh". Trước khi chia tay ông bầu cho tôi biết là đoàn sẽ hát ở Cà Mau mười đêm, sau đó lên Bạc Liêu trình diễn tại rạp Cao Văn Lầu trong dịp Tết Nguyên Đán. Ông còn nói với tôi là bất cứ đêm nào, nếu muốn vô coi hát thì ông để sẳn vé mời thượng hạng ngay phòng vé cho tôi. Tôi cám ơn và hẹn sẽ trở lại nay mai.

Bài quá dài, phải cắt bớt
Đêm hôm đó hai thằng ngồi trong rạp Cao Văn Lầu xem đoàn Hương Tràm hát một xuất chót như để ngầm giã từ Út Thảo. Tôi cho chiến hữu biết về kế hoạch sắp tới, dặn vợ chồng chuẩn bị thu xếp cùng đi với tôi, cho tôi được một lần đóng vai Lưu Bình để đền đáp lại ơn xưa. Bạn đã cứu tôi ra khỏi trại tù... "nhỏ", giờ đây tôi không phải chỉ đưa bạn đi vượt biên, mà là đưa vợ chồng bạn ra khỏi trại tù... khổng lồ hình chữ S, đang giam cầm cả dân tộc Việt Nam.

Tôi cùng vợ chồng người chiến hữu xuống Cà Mau đến điểm hẹn đúng ngày giờ ấn định. Không biết do ông thầy bói mù tiên đoán hay nhóm tổ chức dự liệu, chuyến đi hoàn toàn suông sẻ, chúng tôi rời Việt Nam an toàn. Riêng bác Chín Cụt vì đã cao tuổi, phần thì thương tật không chịu nổi sóng gió nên ngã bệnh và đã trút hơi thở cuối cùng trước khi đến được bến bờ Tự Do. Tôi ngậm ngùi vuốt mắt bác Chín và làm lễ thủy táng trước sự đau thương xót xa của gia đình bác cùng tất cả những người trên ghe.

Hai mươi chín năm đã trôi qua. Tôi viết lại câu chuyện của đời mình để suy gẫm lại cái giá phải trả của những thuyền nhân chỉ vì hai chữ "Tự Do". Để thành kính tưởng nhớ ông Thầy Bói Mù cùng bác Chín Cụt, một người cách mạng giác ngộ. Ước mong ngày nào đó, cả chế độ hiện tại cùng giác ngộ như bác Chín, để toàn dân Việt Nam được hưởng một mùa Xuân No Ấm Tự Do đúng nghĩa.

Tự Do ơi Tự Do Em đổi bằng nước mắt
Vì hai chữ Dự Do
Anh trao bằng máu xương
Tự Do ơi Tự Do
Em trả bằng thân xác
Vì hai chữ Tự Do
Ta mang đời lưu vong.

(Xin Đời Một Nụ Cười - Nam Lộc)

Trần Thanh Tùng
304Đen – Llttm - YD

 

No comments: