30/04: VNCH để lại
nhiều di sản quý cho ngày nay và tương lai
Đáng lẽ bài này được dành cho ngày 30/4 năm
tới (2020), nhưng tác giả muốn viết sớm một năm để nhớ dĩ vãng buồn vào mỗi dịp
tháng Tư, và nhắc lại những thành tựu không thể phủ nhận của 21 năm Việt Nam
Cộng hòa (1954-1975) có thể thành bài học quý giá cho Việt Nam bây giờ và trong
tương lai.
Trước tiên,
di sản lớn nhất của VNCH đã để lại cho thế hệ sau 1975 phải nói đến là nền âm
nhạc phong phú, đa dạng và chan chứa tình tự dân tộc và văn hóa dân gian.
Bất chấp chủ trương diệt tận gốc rễ của chính
quyền mới sau tháng 4/1975, nét văn hóa bất diệt này vẫn tồn tại ở miền Nam và
sau đó lan dần ra miền Bắc. Ban đầu chỉ có một số nhỏ bài hát được phép trình
diễn chính thức, nhưng danh sách này lớn dần và đến nay thì hình như không có
lệnh cấm giới hạn nữa.
Phong trào nhạc Bolero, hay còn được gọi là
"nhạc vàng" tràn ngập bây giờ là ví dụ hùng hồn nhất.
Nhưng trong giới hạn của bài này, chúng tôi chỉ
muốn đề cập đến các di sản chính khác về giáo dục, kinh tế, chính trị hành
chính và xã hội.
Tự hào tuổi trẻ và nền giáo
dục Miền Nam
Đọc xong vài quyển sách gợi chuyện cũ, tưởng như
đã được rũ sạch nỗi ấm ức cái "hội chứng Việt Nam" (Vietnam syndrome)
từ lâu về một đất nước phú cường văn minh như Nam Hàn phải có trong giấc mơ cho
xứ mình.
Thật sự từ trên 40 năm nay, sau khi du học ở
tuổi 18 rồi ra trường, sống và đi làm nhiều nơi, tôi vẫn chưa tỉnh hay thoát ra
khỏi "NÓ". Tôi chưa giải tỏa được nỗi ấm ức của "giấc mơ
xưa" ở tuổi thanh xuân. Tôi từng có những giấc mơ đội đá vá trời và lòng
tự tin nhưng suốt đời vẫn chưa tìm thấy chốn "dung thân" để phục vụ
lý tưởng tuổi trẻ.
Đã từng về làm việc ở Sài Gòn từ đầu thập niên
2000 cho đến 2014, tôi thấy hàng ngày sự phồn thịnh hơn của xã hội về vật chất
so với những ngày tuổi trẻ miền Nam của tôi, nhưng tôi vẫn tò mò tìm hiểu nơi
đám người tuổi trẻ hiện nay, xem họ có chia sẻ cái "phần hồn ngày
xưa" của đám anh em chúng tôi đã lớn lên trong cùng thành phố này.
Chúng tôi lớn lên trong khung cảnh của một đất
nước loạn ly, nhưng may mắn còn được hấp thụ một nền giáo dục, tuy mang tiếng
"từ chương" lý thuyết nhưng vẫn có một giá trị tối thiểu nào đó được
chứng minh sau này khi đàn chim non miền Nam chúng tôi tốt nghiệp trung học,
bay ra khắp các chân trời thế giới đã ghi lại nhiều thành tích trong các trường
đại học Âu Mỹ.
Chúng tôi còn may mắn lớn lên trong một nền lễ
giáo cổ truyền Việt Nam còn sót lại, tôn trọng các giá trị gia đình cao đẹp từ
ngàn xưa, những tin yêu vào tình đời tình người vẫn còn mạnh mẽ.
Nhất là thời kỳ "vàng son" 1955-63 của
nền Đệ nhất Cộng hòa trong thanh bình thịnh vượng của một VNCH dân chủ tương
đối.
Đáng nói nhất là đám thiếu niên tuổi 15-16 thuở
chúng tôi đã manh nha một lòng yêu nước mãnh liệt, muốn góp tay xây dựng một
đất nước phú cường bằng sự chăm chỉ học hành trau dồi kiến thức, mơ tưởng đến một
nền kinh tế hùng mạnh, một xã hội ấm no công bằng.
Chúng tôi chỉ có ý nghĩ đơn giản như đại đa số
thanh thiếu niên trong các nước Á châu khác lúc ấy, là sẽ cố gắng học hành hay
làm việc để xây dựng đất nước bằng một nền kinh tế vững chắc. Đó là lưu dấu kỷ
niệm đậm đà nhất của tuổi thanh niên mới lớn ở miền Nam.
Sau này, khi có dịp về sống ở Sài Gòn rồi ngồi
trầm ngâm hàng giờ bên ly cà phê ở quán Continental, tôi ngỡ ngàng xem từng
đoàn xe máy phóng như đua chung quanh Nhà hát Thành phố -Trụ sở Hạ nghị viện
VNCH trước 1975 - của những người trẻ tuổi bây giờ.
Họ la hét ầm ĩ, có vài cô mặc thiếu vải nhún nhảy tự nhiên trên băng sau
của những chiếc xe máy Honda đắt tiền kiểu mới nhất, ăn mừng trận bóng tròn vừa
thắng Thái Lan hay Malaysia. Họ hét to "Việt Nam vô địch" như thể
hiện ý chí chiến thắng đó giống các nhóm khán giả đông đảo thường la to mỗi lần
có mặt trên những sân vận động.
Nhóm đua xe đông quá và dường như tạo thành sức
sống mãnh liệt cho cái thành phố quá tải của đất nước được mệnh danh là
"non trẻ" này, khi các nhóm trẻ từ 20 đến 40 tuổi được ước tính chiếm
40% dân số, vẫn là một ẩn số lớn về xã hội và chính trị.
Những người trẻ bay lượn trong phố đêm trên
những "mô tô bay" như biểu hiện của tự do, của văn minh còn được tìm
thấy cho tuổi trẻ của mình trong đất nước đó. Tôi chợt hiểu tại sao họ thường
"đi bão, xuống đường" tràn ngập với những rừng cờ đỏ, băng rôn hay tô
son vẽ mặt đậm màu quốc kỳ để chào mừng một trận vừa thắng "kẻ địch".
Bên trên những chiếc xe máy tốc độ giúp cái hừng
khí ngắn ngủi chợt tìm thấy, lòng yêu nước được dịp tỏ rõ qua những sự kiện thể
thao. Đam mê còn lại đó cùng những ly bia đầy giúp họ xóa đi cái vô cảm hàng
ngày với những vấn đề lớn hơn của xã hội, và bớt đi cái mặc cảm thiếu trách
nhiệm với một đất nước tụt hậu thua kém láng giềng. Họ có vẻ ít nghĩ xa như
vậy.
Những người lớn tuổi xưa cũ của thành phố này
thường tỏ lộ u hoài, nói với tôi là họ nhớ lại các thế hệ cùng tuổi như chúng
tôi dạo 1960-1970. Ngay chính Chủ tịch Quốc hội đương nhiệm, Nguyễn Thị Kim
Ngân, vốn gốc tỉnh Bến Tre thời VNCH, cũng phải tâm sự lên tiếng khen nền giáo
dục cũ của miền Nam.
Những ý nghĩ vụn này đã tạo dịp cho tôi được
sống lại những tự hào của một thời tuổi trẻ trong thành phố Sài Gòn, được hưởng
nền giáo dục VNCH, với lý tưởng mộng mị cho một Việt Nam hùng mạnh tương lai.
Ra đi du học mong trau dồi kiến thức với tâm
huyết hừng hực của một thanh niên tuổi 20, và sau này lúc ra đời làm việc ở
nhiều nơi trên thế giới, vẫn mang trái tim phục vụ tuổi 30 dù mái tóc đã điểm
sương.
Và cùng với người Sài gòn bấy giờ, tôi vẫn thấy bừng lên sức sống với giấc mơ xưa: Biết đâu sẽ có một ngày?
Di sản cộng hòa cho Việt Nam
nay là gì?
A. VNCH và thành công kinh tế
thị trường
Dù chưa được quen thuộc nhiều với các định chế
kinh tế và tài chính quốc tế hay các nền kinh tế tư bản lớn, VNCH đã biết sớm
theo các qui luật của nền kinh tế thị trường và nhất là nhấn mạnh vai trò khu
vực tư nhân.
Điều này tương phản hoàn toàn với nền kinh tế VN
bây giờ, sau 44 năm thống nhất, vẫn loay hoay với lý thuyết "kinh tế thị
trường theo định hướng xã hội chủ nghĩa" mà không ai chứng minh được.
Các thay đổi lớn sau ba thập niên Đổi Mới từ
những năm 1986-1989 đã giúp VN có một bộ mặt tương đối phồn thịnh ở các thành
thị, nhưng đi dần vào bế tắc nếu không có các cải cách thể chế song hành với
cải cách kinh tế ở giai đoạn tới. So sánh thời kỳ 21 năm dưới VNCH với thời
gian ít hơn một nửa so với 44 năm của nước VN thống nhất, hai di sản kinh tế
nổi bật của VNCH là:
Cách mạng Xanh
Đặc biệt là chính sách "Cải Cách Điền
Địa" dưới thời Đệ Nhất Cộng Hòa được tiếp nối bởi "Người Cày Có
Ruộng" dưới thời Đệ Nhị Cộng Hòa, nhằm lấy lại các mảnh ruộng bao la nằm
tập trung trong tay một số nhỏ đại điền chủ từ thời Pháp thuộc, phát đất rộng
rãi cho các tầng lớp nông dân và khuyến khích tự do trồng trọt, nhất là lúa
gạo, để miền Nam tự cường.
Ngoài ra, và quan trọng nhất, là những năm về
sau Chính phủ VNCH đã cho áp dụng một chính sách qui mô cho gieo hạt lúa mới
"Thần Nông" trên toàn vùng đồng bằng Cửu Long, làm tăng gia đột biến
năng suất trồng lúa và mức sản xuất gạo của đất nước, đưa đến cả khả năng xuất
cảng gạo bắt đầu vào năm 1974. Đây là thành tích kinh tế đáng kể của VNCH khi
cuộc chiến tương tàn cũng đi vào giai đoạn ác liệt nhất.
Nước VN thống nhất sau tháng 4/1975 mới chỉ nhận
ra tầm quan trọng của chính sách sản xuất lúa gạo tự do với Đổi Mới từ năm 1986
khi đến bờ vực của nạn đói, lúc không sản xuất đủ gạo ăn và dân chúng bắt đầu
phải trộn cơm với bo bo từ những năm 1980.
Từ khi chính phủ trung ương ở Hà Nội thay đổi
chính sách bằng "ngòi bút" từ nghị quyết năm 1986 cho phép dùng giá
cả và sản xuất tự do, di chuyển gạo từ vùng thừa sang vùng thiếu, đã làm lại
cuộc "cách mạng xanh" nói trên của VNCH, khởi đầu toàn chiến lược đổi
mới nông nghiệp và tiếp đó "lột xác" toàn nền kinh tế trong ba thập
niên theo sau.
Điều đáng lưu ý là cuộc cách mạng này đã được
thừa hưởng di sản có sẵn của chính sách tự do trồng trọt ở đồng bằng Cửu Long,
diện tích trồng đã được phân phối rộng và công bằng ở miền Nam, và nhất là kiến
thức nông gia trong việc canh tác lúa "Thần Nông" đã có sẵn. Đáng kể
hơn là việc có thể đem kỹ thuật và giống lúa này ra đồng bằng sông Hồng ngoài
Bắc, khiến mức sản xuất lúa gạo của toàn cõi tăng kỷ lục, và không ngạc nhiên
khi chỉ chục năm sau VN đang từ thiếu gạo ăn trong nước, trở thành xứ xuất cảng
gạo hạng ba thế giới sau Thái Lan và Ấn Độ.
Khai thác dầu khí
VNCH đã tìm ra vài "túi dầu" đầu tiên
vào các năm 1973-74 ở thềm duyên hải Vũng Tàu, chỉ tiếc là chưa kịp thì giờ và
vốn đầu tư khai thác để tìm ra dung lượng lớn đáng kể đủ hấp dẫn các nhà đầu tư
nước ngoài. Ngoài ra, tình trạng thiếu an ninh do cuộc chiến tiếp diễn hàng
ngày đã là yếu tố quyết định khiến các nhà đầu tư ngần ngại.
Nhiều quan sát viên quốc tế và nhà bình luận
chính trị sau này đã tiếc cho VNCH là chưa đủ thời gian để khai thác các mỏ dầu
và khí ngoài khơi khổng lồ, nhất là đủ để hấp dẫn các hãng dầu Hoa Kỳ.
Nếu có, và nếu các hãng này ký kết khai thác với
chính phủ miền Nam dạo đó, chưa chắc gì có cảnh Henry Kissinger ký kết bán đứng
VNCH vào năm 1972, sửa soạn cho hiệp định ngừng bắn Paris 1973 và ngày nhân dân
miền Nam phải bỏ cuộc tháng 4/75.
Sau 1975, nước VN thống nhất thừa hưởng trọn vẹn
và dầu khí từ miền Nam trở thành tài nguyên chủ lực của nền kinh tế VN bây giờ.
Ngoài việc đem lại số xuất cảng đáng kể hàng năm cho dân chúng và nguồn lực
phát triển, đáng tiếc là một phần tài nguyên đó cũng bị mất mát do tham nhũng
và đầu tư phung phí như các tài liệu điều tra mới đây về đầu tư ở Venezuela chỉ
ra.
Không cần nhìn đâu xa phức tạp hơn, phải chăng
một phần di sản của VNCH là đây?
B. Nền dân chủ của VNCH
Nền dân chủ phôi thai của Đệ Nhất Cộng Hòa
(1955-1963) trong khung cảnh mới dành lại độc lập và nền dân chủ được củng cố
thêm của Đệ Nhị Cộng Hoà (1967-1975) tuy khiêm nhượng và tương đối, do bị đe
dọa hàng ngày bởi cuộc chiến, vẫn cho phép nhân dân miền Nam sống hạnh phúc
trong khuôn khổ nhân quyền được tôn trọng theo hiến chương Liên Hiệp Quốc và
các quyền tự do căn bản nhất như bầu cử, ngôn luận, hội họp, biểu tình v.v…vẫn
được thực thi.
Chủ trương pháp trị, hay thượng tôn pháp luật (rule of law) của cả hai
nền Cộng hòa với bầu cử Quốc hội và Tổng Thống tương đối tự do; nền hành chánh
trung ương và địa phương được điều khiển bởi các chuyên viên kỹ trị được đào
tạo bài bản trong các trường chuyên môn (thí dụ nổi bật là trường Quốc gia Hành
chánh của miền Nam). Ở mỗi tỉnh, người tỉnh trưởng là nhân vật chính trị hay
quân sự do Chính phủ trung ương bổ nhiệm, nhưng Phó Tỉnh trường thường là
chuyên viên kỹ trị.
Trái lại, Việt Nam thống nhất bây giờ mới chỉ
cổ võ cho bầu cử tự do nhưng chưa bao giờ được thực hiện trong thực tế qua các
cuộc ứng cử và bầu cử các Hội đồng Nhân dân và Đại biểu Quốc hội.
Tương tự, Việt Nam bây giờ mới bắt đầu học hỏi
kinh nghiệm về cải cách hành chánh như dưới thời VNCH và cử chuyên viên kỹ trị
ở cấp trung ương và địa phương.
Quốc hội Việt Nam bây giờ mới sửa soạn các dự
thảo luật đề nghị bổ sung thẩm quyền của Thủ tướng trong việc áp dụng những mô
hình mới về tổ chức bộ máy từng Bộ, cơ quan ngang Bộ, các cơ quan thuộc chính
phủ trung ương, và chính quyền địa phương cấp Tỉnh và cấp Huyện.
Theo đó, Thủ tướng cũng có thêm quyền thành lập,
sát nhập, hay giải thể các cơ quan, tổ chức hành chính khác thuộc cấp Tỉnh và
cấp Huyện.
C. Các tổ chức Xã hội Dân sự
Các tổ chức này dưới thời VNCH được tự do thành
lập và hoạt động với qui chế tự trị về cả hành chính và tài chính. Ví dụ như
Tổng liên đoàn Lao công hay các Tổ chức chính trị, xã hội và Hiệp hội.
Còn hiện nay, Nhà nước tìm mọi cách để trì hoãn
không trình ra Quốc hội hai Dự luật lập hội và Biểu tình, mặc dù hai quyền này
của dân đã quy định trong Hiến pháp 2013.
Người dân cũng không được quyền ra báo, như đã
duy định trong "quyền tự do ngôn luận" ở Điều 25 Hiến pháp 2013 viết:
"Công dân có quyền tự do
ngôn luận, tự do báo chí, tiếp cận thông tin, hội họp, lập hội, biểu tình. Việc
thực hiện các quyền này do pháp luật quy định."
Sinh viên biểu tình chống chính phủ Nguyễn Khánh, tháng 8/1964 ở Sài Gòn
Như nói ở trên, những dòng viết ngắn của tôi
nhân dịp 44 năm từ biến động lịch sử 30/04/75 không phải là để thêm nước mắt
cho một đau buồn còn ghi đậm dấu trong tâm hồn tôi, một con dân Việt Nam Cộng
hòa cũ.
Với thời gian hơn 50 năm từ tuổi thiếu niên rời
trường, ra nước ngoài du học, rồi bôn ba theo vận nước nổi trôi làm việc bên
ngoài, tôi lại tìm cách "chim quay về tổ" trong 12 năm để tò mò xem
xứ mình ra sao.
Nhưng cuối cùng, sau những trải nghiệm với thực
tế và con người "mới", tôi lại phải ra đi tìm về một nơi qui ẩn để
nghĩ lại đời mình và quê hương cũ một cách bình tĩnh hơn.
Tôi tự cho mình trên nguyên tắc là người thuộc
"Bên Thua Cuộc" với hai cơ hội bỏ lỡ từ thời 1963 của Đệ nhất Cộng
hòa và 1975 của thời Đệ nhị Cộng hòa. Nhưng không phải hoàn toàn do lỗi chúng
ta, mà quan trọng hơn là do sự phản bội của nước bạn "đồng minh" Hoa
Kỳ không giữ lời cam kết ngăn chặn cuộc tấn công miền Nam của lực lượng cộng
sản.
Lời hứa bằng giấy trắng mực đen của Tổng thống
đảng Cộng hòa Richard Nixon lúc bấy giờ đã hứa bằng văn thư với Tổng thống VNCH
Nguyễn Văn Thiệu, sau khi ông Thiệu bằng lòng ký Hiệp định Paris 1973.
Do đó mà chúng ta đành chấp nhận kiếp tha hương
hiện tại do số mệnh đi từ vận nước không khá kéo dài suốt từ hơn 70 năm nay.
Dù không giữ được miền Nam thân yêu, nhưng chúng
ta, những người miền Nam đã để lại di sản VNCH đáng kể cho cả đất nước và dân
tộc hôm nay và tương lai.
Các kênh truyền thông và các cuộc tiếp xúc của
tôi với người trong nước đều cho thấy đại đa số đồng bào ta đều hướng về di sản
đó với lòng thán phục và thiện cảm, cũng như lòng ngưỡng mộ của họ với các nền
dân chủ tiến bộ phương Tây.
Một cách công bằng, chúng ta cũng phải nhìn nhận
về "legacy" của "Bên Thắng Cuộc" (như tựa đề cuốn sách của
Huy Đức), nói đúng ra là huyền thoại "chiến thắng" của họ năm 1975
nhờ vào sự mệt mỏi bỏ cuộc của Mỹ do áp lực chính trị ngay từ trong lòng
Washington, D.C. và tham vọng chính trị cá nhân của Henry Kissinger muốn bỏ rơi
VNCH như "món quà chuộc" lấy lòng Trung hoa, mở ra chiến thắng chính
trị và thương mại cho Mỹ với thị trường rộng lớn 1,3 tỷ dân Trung Hoa.
Phần khác, họ đạt được chiến thắng quân sự sau
cùng nhờ sự yểm trợ tích cực bền bỉ của Liên Xô và Trung Quốc.
Họ đã nắm được quyền hành chính trị, xét cho
cùng thì cũng là một "legacy" thôi và nếu họ biết "góp vốn"
bằng cái đó vào việc xây dựng một Việt Nam tương lai dân chủ và văn minh trong
tình hòa giải dân tộc cả trong và ngoài nước, thì sẽ là công lao lớn cho dân
tộc và đất nước.
Nhưng nếu các nhà lãnh đạo hiện nay chỉ biết
nắm giữ quyền hành toàn trị, gậm nhắm quá khứ "vinh quang" của chiến
thắng 1975 thì "di sản" đó sẽ bị lịch sử xóa đi nhanh chóng.
Đã trải qua thời VNCH, cuộc sống ở hải ngoại và
có dịp về Việt Nam ngày nay thường xuyên, tôi tin vào lẽ tuần hoàn của Trời
Đất sẽ phải áp dụng cho quê hương cũ: "Cùng tắc biến, biến tắc
thông…"
Nhiều người lãnh đạo cũ của VNCH ở tuổi 35-50
lúc ra đi năm 1975 đều đã nằm xuống.
Nhóm lãnh đạo 60-80 tuổi của VN bây giờ cũng
phải ra đi vì quy luật thời gian trong 5-10 năm nữa.
Các tang lễ liên tiếp của thế hệ lãnh đạo cộng
sản 'kháng chiến' gần đây và sắp tới cho thấy họ đang thành quá khứ, và không
phải một mà hai ba thế hệ khác trẻ hơn đang trưởng thành, chỉ chưa có quyền
được làm chủ quốc gia.
Đất nước không thể "tắc" mãi như thế
này, và sắp đến lúc phải có chữ "THÔNG" mà thôi.
Nhất là các thế hệ trẻ 25-55, lớp người quyết
định vận mệnh của đất nước Việt Nam trong 5-10 năm nữa, sẽ nối tiếp bó đuốc
lãnh đạo và, cùng với thế hệ trẻ gốc Việt lớn lên ở hải ngoại quay về, họ sẽ có
thể hướng đất nước về một hướng tốt đẹp hơn nhiều.
Và tôi tin rằng họ sẽ để lại tên tuổi trong lịch
sử một Việt Nam dân chủ, phồn thịnh, hùng cường trong vùng Đông Nam Á.
Vũ Thăng Long – BBC
304Đen –
Llttm - BCT
No comments:
Post a Comment