Câu Chuyện mùa Giáng Sinh – CHUYỆN Ở
THỊ TRẤN
Căn cứ nằm
trên ngọn đồi thấp, nhìn xuống con đường nhựa. Con đường này là một nhánh cụt
từ phía quốc lộ chạy vào và chấm dứt ở khúc quanh ngay đầu thị trấn. Phía bên
kia con đường là những độn cát trắng xám, bẩn thỉu nằm nhấp nhô giữa bụi cây
dại và một nghĩa trang của Giáo Xứ . Xa hơn một tí, là một cái xóm lưa thưa vài
ba nóc nhà nằm dựa lưng vào chân núi. Nhìn lui phía sau, cũng vẫn những độn cát
và xa hơn nữa và nếu đứng một chỗ cao hơn thì có thể thấy, là biển.
Cuối tháng
12, mưa dầm. Từ trên vọng gác ở cổng chính, nhìn xuống, nhất là vào buổi chiều,
người ta có cảm tưởng đang đứng giữa một bãi tha ma lạnh lùng. Trong cái hoang
vắng đó, bầu trời và mặt đất khó có thể phân biệt được, giữa những đám mây nặng
nề đầy hơi nước, và những cồn cát xám trải dài phía dưới tựa hồ như đan dính
với nhau qua một màn mưa trắng đục. Tiếng động duy nhất lúc bấy giờ, có thể
nghe được, ngoài trừ những tiếng chửi thề tục tĩu của đám lính đang quay bên
sòng xì lát vọng lên từ cái chòi phía dưới, là tiếng nuớc mưa rơi đều đặn xuống
mái tôn trên nóc vọng gác. Và, chỉ có thế, ở đây, mùa mưa như bất tận, kéo dài,
ngày này qua ngày khác.
Ngày tôi mới
thuyên chuyển đến, ông Trung sĩ Thường vụ nói . Ở đây như một hòn đảo nhỏ giữa
biển mênh mông, chẳng ai thèm để ý, quân địch cũng chẳng thèm mò đến, nói chi
đến ai.
Cái hòn đảo
nhỏ ấy chứa khoảng một đại đội lính, làm nhiệm vụ bảo vệ Thị Trấn cùng cái con
đường lở lói đi vào cái Thị Trấn ấy. Nhiệm vụ thật mơ hồ, bởi vì ai cũng biết
quân địch có điên mới tính chuyện đánh vào đây. Địa thế trống trải, chung quanh
toàn cồn cát, núi thì xa, biển thì gần, việc di chuyển quân dễ bị phát hiện
chưa kể đánh vào thì không có đường rút ra, rất dễ trở thành mục tiêu cho máy
bay. Nên việc bảo vệ Thị Trấn, cũng chỉ là một nhiệm vụ có tính nguyên tắc. Mỗi
3 ngày mới có một chuyến xe đò chở hàng vào Thị Trấn và mỗi tuần mới có một
chuyến trực thăng hay xe chở đồ tiếp tế hoặc lương tiền cho căn cứ. Con đường
thường ngày trông hiu quạnh như cái Thị Trấn mà nó dẫn đến, năm khi mười họa
mới có vài chiếc xe đạp, chiếc Honda chạy qua lại. Mỗi buổi sáng, một trung đội
lính đi mở đường vào Thị Trấn, mở đường tức là đi dò, coi thử có thằng khùng
nào đem mìn đến chôn ở đây hay không, toán lính đó đi một mạch đến chiều tối
mới về sau khi nhậu nhẹt đã đời trong mấy quán rượu. Chiến tranh bỏ sót nơi
chốn này, như ông Trung Sĩ già, ngồi ở trại lính mà như ngồi ở trại an dưỡng
chờ ngày về hưu, nói lè nhè: Ở đây không có đánh nhau, chỉ có đánh ghen, đánh
bài, đánh số đề.
Quên nói
chuyện, trong Thị Trấn còn có một nhà thờ nhỏ.
Tôi nói với
Thụy
Em ở đây
không thấy buồn sao ?
Tất nhiên là
không vui, nhưng cũng thấy không buồn, mà anh hỏi làm chi vậy ?
Hình như từ
ngày sinh ra đến giờ, cô gái xinh xinh ấy chưa bao giờ được ai hỏi về chuyện
cuộc đời này buồn hay vui cả. Buồn vui không thành vấn đề, vấn đề đáng nói là
chiến tranh không có mặt ở đây. Khoảng từ 500 đến 600 cư dân lớn nhỏ cư ngụ
trong chừng 100 nóc nhà kéo dài hai bên đường hằng ngày, sống ngoan ngoãn và vô
tư bên cạnh cái nhà thờ nhỏ nằm thụt sâu phía trong, chắc họ cũng có cùng một ý
nghĩ như cô gái đó. Chỉ có một người không bao giờ muốn chấp nhận cuộc sống an
phận như thế là Bà Tư mập. Bà Tư goá chồng, bán bún bò, đại lý vé số, đồng thời
cũng là chủ số đề duy nhất trong Thị Trấn. Tôi biết bà Tư, thậm chí còn rất
thân với người đàn bà này, không phải vì tôi vẫn thường dẫn lính vào ăn bún bò,
uống ruợu, mua vé số đánh số đề, mà vì bà Tư chính là mẹ của Thụy. Bà Tư đến
lập nghiệp ở Thị Trấn cách đây 8 năm, hồi Quân Đội Mỹ còn đóng ở căn cứ này.
Lúc đó bà mở một cái Bar bán rựơu và Thụy chỉ là một cô bé mới mười tuổi. Khi
Quân Mỹ rút đi, bàn giao căn cứ cho đơn vị Địa Phương Quân, thì cái Bar của bà
Tư cũng tụt xuống trở thành một cái quán bán bún bò. Ngoài việc bán bún bà còn
bán vé số và chủ số đề.
Gần mới đây
nhất, tôi gặp bà Tư khi bà đi lễ về, buổi sáng Chủ Nhật, cạnh con đường nhỏ đi
vào sân nhà thờ. Bà nói lại, điều bà đã từng nói với tôi hàng chục hàng trăm
lần, trước kia. Tội nghiệp cho con bé, ở đây miết nó ế chồng mất. Bất cứ người
mẹ nào cũng băn khoăn giùm cho con mình về chuyện này. Nhưng đối với bà Tư thì
là chuyện khác, với người đàn bà này, có thể một ngày nào đó bà sẽ dọn lên Tỉnh
ở, nhưng chắc chắn, không phải vì lý do sợ đứa con gái ế chồng. Tôi đã từng
nghe người ta kể lại chuyện mụ đàn bà goá này nói với ông Cha ở nhà thờ, một
câu nói trứ danh như sau :Ở đâu có chiến tranh, ở đó mới có sự sống. Ở đâu có
sự sống, ở đó có conSự sống đó là những đồng tiền rút ra từ vỏ đạn phế thải, đồ
hộp, rác Mỹ, gái điếm, hộp đêm, những đồng đô la xanh đô la đỏ và có thể ngay
cả trên những xác chết. Trong Thị Trấn này, thiếu vắng chiến tranh, tức là
thiếu những cái nói trên, và đối với mụ đàn bà goá này, cũng có nghĩa là thiếu
vắng sự sống..Mặc dù tôi không ưa mụ đàn bà này, nhưng tôi cũng đồng ý về
chuyện ở đây miết, nó ế chồng mất. Đàn ông trong thị trấn chỉ chiếm chừng1/5
dân số, trong đó hết 2 phần 3 là ông già, số còn lại, hầu hết đều có vợ con.
Thanh niên con trai độc thân không còn ai. Lớp đi lính ở xa. Lớp bỏ lên Tỉnh
sinh sống. Thụy như một bông hoa lẻ loi nằm trong một khu vườn hoang vu, cằn
cỗi, không bướm ong lai vãng, chỉ có vài con dế đen thui cộc cằn bò dưới đất..
Cũng giống
như mùa mưa, mùa Giáng Sinh đến, âm thầm, lặng lẽ. Chỉ có vài dây đèn xanh đỏ
treo trước cổng vào nhà thờ và một Hang Giáng Sinh cũ kỹ nằm phía trước. Buổi
sáng, một số giáo dân tụ họp trước nhà thờ quét dọn, làm vệ sinh, chuẩn bị cho
buổi lễ chính đêm nay. Tôi gặp Thụy, sau khi nghe tin Hạ Sĩ Tùng bê luôn cả
tháng lương mới lãnh chiều hôm qua nạp cho bà Tư mập để mua một con số. Đó là
tin giật gân lúc sáng sớm theo toán lính đi mở đường. Hạ Sĩ nhất Tùng, 32 tuổi,
gốc người ở Thị Trấn, nhưng lưu lạc giang hồ từ lúc nhỏ , một hay hai vợ gì đó
không rõ lắm, 5 con 3 trai hai gái, đi lính 10 năm nhưng mới lên đến Hạ Sĩ vì
nhiều lý do. Bỏ phiên gác, đi phép trễ, trốn đơn vị đi chơi, nhưng nói chung,
đó chỉ là những cái tội lặt vặt. Cái tội quan trọng nhất đó là tội mê … số đề.
Vợ con Tùng ở khu Gia Binh trên Tỉnh, mỗi tháng lật đật theo xe tiếp tế xuống,
mục đích nhận lương của chồng cho kịp trước khi anh ta đem nướng hết vào mấy
con số đề. Tùng tuần nào cũng ra ghi số đề ngoài quán bà Tư. Tùng đánh rất bạo
mỗi con số anh ta có thể chơi nguyên luôn nửa tháng lương. Nhưng thường thường
anh ta chỉ đánh một con số, và không nhất định con số nào, có thể là con số bất
chợt nào đó hồi hôm vừa nằm mơ thấy, hoặc con số trên chiếc trực thăng mới
xuống tiếp tế hồi đầu tuần, hay một con số vớ vẩn trong một cái am cạnh vọng
gác mà anh ta ngày nào cũng ra khấn vái. Tôi đem chuyện đó ra nói với Thụy.
-Bà già của
em ác quá, bà dám bán một con số để lấy luôn cả tháng lương của người ta
-Bây giờ làm
sao ? Cô gái hỏi, một cách hiền lành
-Thì nói với
bả trả tiền lại cho vợ con người ta mua gạo ăn chứ sao
-Không biết
kịp không, chiều nay xổ số rồi
Cô gái không
nói thêm nữa, đứng yên lặng nhìn lên cây Thánh giá trên nóc nhà thờ. Mưa rơi
lất phất. Phía dưói sân tôi thấy những bóng người đang lặng lẽ làm việc. Những
bóng dáng nhỏ bé chậm chạp đi lui đi tới bên cạnh hang đá, hay quét rác, treo
đèn trên bậc thềm, trông vừa tội nghiệp vừa buồn bã. Tôi quên hẳn việc Hạ Sĩ
nhất Tùng đem nguyên cả tháng lương để mua một con số hồi chiều qua.
Bỗng nhiên
tôi hỏi
-Tại sao em
không lên Tỉnh mà sống ?
Nàng nhìn
tôi, cười. Khi nàng cười, trông càng không giống mẹ nàng chút nào. Nụ cười ấy,
phảng phất một chút buồn dìu dịu, hay nói theo văn chương, là vô cùng thánh
thiện, cái nụ cười chỉ gặp được trên môi của các vị thiên thần mà ta hay thấy
trên các bức tranh treo trong nhà thờ. Khi nhìn nụ cười ấy, tôi nghĩ tốt hơn
hết là mình nên im lặng. Bước ra khỏi nhà thờ, quay lui lại, vẫn thấy Thụy đứng
trong màn mưa, nhìn lên cây Thánh Giá. Cái bóng dáng nhỏ bé của Thụy đứng chìm
lẫn giữa những bóng dáng nhỏ bé khác, bên cạnh, tất cả như trong một bức tranh,
nhưng đó là một bức tranh chỉ có một màu duy nhất, đó là màu xám. Năm trăm con
người đang sống trong cái bức tranh đó, có vẻ gần như cô lập với thế giới bên
ngoài, cái thế giới đầy màu sắc, hào phóng, nhưng cũng rất hung ác. Vậy thì tốt
hơn hết, Hãy để cô bé vẫn tiếp tục sống, nhìn ngắm cuộc đời mình trôi qua trong
bức tranh lặng lẽ kia. Cái cuộc đời không cần niềm vui, nhưng cũng chẳng biết
thế nào là nỗi buồn.
Buổi trưa,
tôi kêu cả hai thằng lên Ban Chỉ Huy Đại Đội, bắt tường trình tỉ mỉ về câu
chuyện ngày hôm qua.
Binh nhất Tí
và Binh nhì Hưng khai như sau: Tối hôm trước, ở vọng gác số 2, lúc nửa đêm, cả
hai thằng bắt gặp Hạ Sĩ Tùng đang thắp hương khấn vái. Biết Tùng đang xin số
đề, Tí và Hưng bàn nhau chơi khăm viên Hạ Sĩ. Chờ Tùng mãn phiên gác, Tí lấy
một viên gạch viết một con số mờ mờ trên miếng xi măng ở vọng gác, cạnh chỗ anh
ta đứng khấn vái. Buổi sáng hôm sau, Tùng phác giác ra con số này, và tất nhiên
không hề biết mình bị hai thằng lính chơi xỏ. Sẵn số tiền lương 12 ngàn đồng
vừa mới lãnh trong khi vợ con trễ xe đò chưa lên kịp, Tùng chạy ra Thị Trấn đến
nhà mụ Tư Mập, lấy toàn bộ tiền lương đánh ngay con số đó. Thằng Hưng nói: Đó
là con số 323. Tùng đánh con số này, bao đuôi. Nếu trúng, tiền chung sẽ lên tới
1 triệu 2 trăm ngàn đồng.
Tôi cho tập
họp toàn bộ Đại Đội trình bày tất cả sự việc và báo cho Tùng biết cái con số
323 kia đó là do hai thằng Binh nhất Tí và Binh nhì Hưng bày đặt ra, ghi trên
lô cốt chứ không phải ông Thần bà Thánh nào cho cả. Tùng nghe xong muốn nổi
điên lên. Tất nhiên chuyện lỡ rồi hắn không thể chạy đến níu áo mụ Tư mập đòi
lại số tiền 12 ngàn đồng kia được.. Nhưng cuối cùng, tôi cũng đã có cách giải
quyết. Tôi và viên Trung Sĩ Thường vụ cố gắng thuyết phục cả đại đội giúp đỡ
cho Tùng, nghĩa là tùy theo lòng hảo tâm từng người… Mỗi người sẽ bỏ ra ít tiền
mua lại con số 323 đó ở Hạ Sĩ nhất Tùng. Kết quả khả quan, Tùng thu lại gần như
đủ số tiền 12 ngàn đồng kia. Mọi việc coi như xong.Sau
đó tôi tuyên bố, toàn đơn vị cắm trại 100%. Lệnh này tôi nhận được cách đây vài
giờ, từ Bộ Chỉ Huy Liên Đoàn. Nửa đêm, lễ Giáng Sinh, Tôi lên chòi gác bắn lên
trời vài loạt đạn cho vui. Nhìn về Thị Trấn, thấy toàn một màu đen. Mưa vẫn rơi
lất phất. Khi tôi chuẩn bị đi ngủ, bỗng nhiên ông Trung Sĩ Thường vụ tới, khều
tôi nói nhỏ : Ông hay gì chưa ? Tui vừa nghe trong ra dô, Con số 323 trúng rồi,
lô độc đắc
Tôi không
bao giờ gặp lại Thùy.
Buổi sáng
như thường lệ, theo trung đội mở đường vào Thị Trấn. Tôi mới biết, đêm qua, hai
mẹ con bà Tư Mập, dọn quán đi mất tiêu.
Nguyễn Đình
Liên
304Đen –
Llttm -dsc
No comments:
Post a Comment