Năm Chuột nói chuyện Cá
"Thuyền nhân, cái danh từ có
một âm tượng mà mỗi khi chính quyền Hà Nội nghe đến nó thì họ nghĩ ngay đến từ
đồng ‘đô la’. Thế nhưng cho đến bao giờ người ta mới biết hết được những bất
hạnh xẩy ra cho danh từ đó." - (Michelle Tauriac - Viet Nam Le Dossier Noir
Du Communism).
Cá hồi sinh ở sông nhưng sống phần
lớn thời gian sống ở biển. Ðặc điểm của loài cá này là dù có rong chơi phiêu du
ở chân trời góc biển nào chăng nữa, thế nào cũng tìm về nơi chôn nhau cắt rốn
để sinh nở. Cá hồi Thái Bình Dương (Pacific salmon), sau khi từ giã nếp sống
hải hồ, sẽ không bao giờ trở lại biển cả nữa. Lý do giản dị chỉ vì chúng sẽ
chết sau khi đẻ và cho thụ tinh lứa trứng đầu tiên.
Cá hồi Đại Tây Dương (Atlantic
salmon) thì khác. Chúng có thể đi đi về về từ sông ra biển và ngược lại nhiều
lần mà không hề do dự hay nao núng, dù khoảng cách phải vượt qua có thể dài đến
hàng ngàn dặm, với vô số khó khăn và chướng ngại.
Bản năng về nguồn của cá hồi, tất
nhiên, đã được loài người ghi nhận và khai thác từ lâu. Riêng người Nhật, dân
tộc đứng thứ nhì về kỹ nghệ cá hồi, vẫn đều đặn sản xuất ra thị trường mỗi năm
cỡ một trăm ba mươi ngàn tấn.
Xét về số lượng, mức sản xuất của
người Nhật không hơn người Nga bao nhiêu và thua xa người Mỹ. Tuy nhiên, cách
thức mà dân Nhật bắt cá hồi mới là điều cần cần phải được lưu tâm và học
hỏi.
Họ thiết lập nhà máy đóng hộp cá hồi
ngay ở ven sông. Cũng chính nơi đây cá được nuôi nấng, đẻ trứng, thụ tinh để
mỗi cặp sẽ cho từ hai đến mười ngàn chú cá hồi con ra đời. Sau đó, chúng sẽ
được cho phiêu lưu vào đại dương, để bắt đầu cuộc đời... tha phương cầu
thực.
Tùy theo từng loại, cá hồi sẽ sống ở
biển từ sáu tháng đến năm năm. Nhờ vào khả năng “cảm” được từ trường của lòng
đất và sự chuyển động của hải lưu, nó sẽ tìm được về chốn cũ. Khi vào gần đến
bờ, giác quan đặc biệt của loài cá này giúp chúng nhớ được đúng hương vị quê
nhà - tức sông xưa bến cũ - và cứ theo đó mà lần về nguồn cội, đến tận nơi sinh
nở.
Người ta đặt sẵn nhiều dụng cụ từ cửa
sông để giúp cho cá hồi dễ dàng và mau chóng vào đến nhà máy. Tại đây, họ sẽ
tạo ra một loại chướng ngại vật giả khiến chúng phải phóng lên cao và khi rơi
xuống thì rớt ngay vào một mạng lưới. Mạng lưới này chuyển động không ngừng,
qua nhiều khâu chế biến, để đưa cá từ sông vào... hộp!
Nói tóm lại là người Nhật thả cá hồi
con ra biển, theo kiểu đem con bỏ chợ, để biển cả nuôi nấng. Rồi khi chúng theo
bản năng trở về, họ dụ cho cá vào nhà máy để đóng hộp và mang bán.
Cách họ kiếm tiền ngó bộ dễ và (chắc)
là nhiều. Bởi vậy, có kẻ bắt chiếc. Nhà Nước CHXHCNVN cũng học theo cách làm
ăn không vốn gần như vậy. Chỉ khác có chút xíu xiu là họ dùng người để kinh
doanh, thay cá.
Từ năm 1978 cho đế năm 1990, bằng
hình thức này hay hình thức khác, Việt Cộng đã “thả” ít nhất là hai triệu người
dân ra biển. Người ta ước tính rằng trên bước đường lưu lạc cứ ba con cá hồi
rời bến sông ra đi thì ít nhất cũng có một con bỏ mạng. Nó trở thành mồi săn
cho loài người, cho loài chim, hoặc những loài cá khác. Tương tự, trong số hai
triệu người Việt phiêu lưu vào biển cả - tối thiểu - cũng phải một phần ba đã
vong mạng.
Họ chết vì bão tố, vì hải tặc, hay vì
bị xô đuổi một cách lạnh lùng tàn nhẫn tại bến bờ của những quốc gia lân cận.
Nơi đây thuyền bè của họ thường bị lôi kéo trở ngược ra khơi. Họ sẽ lênh đênh
giữa trời nước bao la cho đến chết vì không còn tìm được nơi để đến, và cũng
không còn đủ lương thực (cũng như nhiên liệu) để tiếp tục đi.
Những kẻ may mắn thoát nạn đều sẽ
biến thành cá hồi (theo tinh thần của Nghị quyết 36) của nhà đương cuộc Hà Nội.
Đám dân trôi sông lạc chợ này sẽ bị tận tình khai thác, và khai thác dài dài,
cho đến khi tắt thở, bằng nhiều cách.
Nếu cá hồi Thái Bình Dương chỉ hồi
hương một lần rồi chết thì những thuyền nhân rời khỏi Việt Nam sau ngày 19
tháng 6 năm 1988 - đã có thời gian dài sống tạm trú ở những quốc gia Ðông Nam Á
- cũng mang số phận y như vậy. Họ bị cưỡng bách hồi hương và không bao giờ còn
có dịp ra đi nữa. Riêng với những thuyền nhân ở Hồng Kông (khi phần đất này còn
thuộc Anh) Anh Quốc đã thoả thuận trả sáu trăm hai chục Mỹ kim mỗi đầu nguời để
Hà Nội chịu nhận họ trở về, cùng với lời hứa hẹn là họ sẽ không bị hành hạ hay
ngược đãi!
Số người Việt may mắn hơn, hiện đang
phiêu bạt tứ tán khắp bốn phương trời, có thể được coi như là cá hồi Ðại Tây
Dương - giống cá có khả năng đi đi về về nhiều lần từ sông ra biển và ngược
lại. Những kẻ này vẫn tiếp tục kiếp sống tha phương cầu thực, chăm chỉ cặm cụi
kiếm và để dành tiền, rồi hàng năm làm đơn “xin phép” được hồi hương. Mỗi Việt
kiều về thăm quê nhà chắc chắn đều chi trải một số tiền không phải chỉ là sáu
trăm Mỹ kim mà có thể là đến sáu ngàn đô la, hay nhiều hơn nữa.
VOV vừa hớn hở loan tin:
“Kiều hối về Việt Nam năm 2019 ước đạt 16,7 tỉ USD, tăng 800 triệu USD so với
năm 2018.”
Hà Nội có lý do để hãnh diện về thành
quả này - thành quả kinh tế duy nhất (thực sự) vượt chỉ tiêu - về kỹ nghệ xuất
và nhập cảng người, sau hơn nửa thế kỷ mà họ đã nắm được quyền bính ở Việt Nam.
Họ đẩy ra khỏi nước những con nguời cùng quẫn và sôi sục bất mãn, rồi “thu về”
những Việt kiều yêu nuớc và giàu sang. Thiệt khoẻ!
23.01.2020
304Đen – Llttm - DLB
No comments:
Post a Comment