Phố của thành phố
Bài viết này của nhà văn Bình Nguyên Lộc đăng lần đầu trên báo Nhân Loại
năm 1957, sau đó được in trong tập truyện Những bước lang thang trên hè phố của
gã Bình Nguyên Lộc, xuất bản năm 1966. Đây là một tản văn thú vị về tên đường
phố Sài Gòn thời điểm đó, xin mạn phép đăng lại để mọi người cùng nhớ và góp
chuyện cho vui.
Đi trên đại
lộ Hai Bà Trưng tôi bỗng sực nhớ lại một điều rồi tủi thân cho bọn đàn ông của
ta. Là hễ đàn ông được danh vọng thì đàn bà cũng thơm lây, nhưng khi đàn bà nổi
danh thì tên tuổi đàn ông chìm sâu thêm.
Đành rằng ông
Thi Sách chỉ có mỗi một cái công nhỏ đối với nước nhà là bị viên thái thú Tàu
giết thôi, nhưng quên mất ông ấy cũng tội.
Vậy nên tôi
đã đi khắp Sài Gòn để tìm xem có con phố nào là phố Thi Sách không? Có. Hoan hô
quí vị đặt tên đường đã nhớ dai hơn nhân dân.
Nhưng mà tội
quá, ông Thi Sách ở mãi bên kia nhà thương Đồn Đất, ở xóm ngoại nhân, không bao
giờ có người Việt bước chân đến. Ông nầy đã chết vì tay ngoại nhân mà hương hồn
ngày nay vẫn lẩn quẩn với ngoại nhân.
Ông Thi Sách
và Hai Bà Trưng chạy song song với nhau cho tới mé nước, và không bao giờ gặp
nhau cả, đó cũng là một điểm đáng buồn cho cặp vợ chồng ấy.
Ông Nguyễn
Thái Học mà còn ngậm cười được vì đã gặp Cô Giang, Cô Bắc ở hai ngã ba chợ Cầu
Muối, đằng nầy ông chồng Bà Trưng chỉ nghe văng vẳng tiếng bà đâu đó thôi.
Bà Sương
Nguyệt Ánh cũng không bao giờ đi thăm cha được, vì bà ở xóm Bùi Chu còn cụ đồ
lại qui điền mãi tận trên Tân Định.
Vị nữ anh
hùng thứ nhì của ta, Bà Triệu cũng bị ta quên mất vì bà cũng ở xóm ngoại nhân,
trong Chợ Lớn.
Tuy nhiên,
cũng phải nhìn nhận rằng đô thành đặt tên rất khéo, Công chúa Huyền Trân ở một
căn phố buồn hiu, sau dinh Độc Lập, buồn như con đường thiên lý ngàn dặm băng
rừng đưa công chúa từ Việt sang Chiêm.
Còn cái phố
có nhiều tiệm mì, tiệm ăn và tửu lâu trong Chợ Lớn mà đặt tên là phố Tản Đà thì
tuyệt diệu bởi vì Tản Đà không phải là thi sĩ mà thôi, lại còn là thực sĩ nữa.
Nếu đô thành
có bất công chút ít, chẳng qua là vì quên đó thôi. Chẳng hạn như ông Phan Huy
Chú được nêu danh trong Chợ Lớn mà ông Phan Huy Vịnh lại không.
Đô thành lại
trọng văn nghệ lắm. Không có nhà văn, nhà thơ nào ngày xưa mà không được lấy
tên đặt tên phố cả, khiến lũ văn nhân thi sĩ hậu sanh là ta đây cũng nức lòng
muốn cố gắng để có thể được biệt đãi như thế về sau.
Chỉ phiền văn
nhân thi sĩ của thế hệ ta đông quá, mà đường phố chỉ có hạn thôi, dễ gì tìm
được một chỗ “mần”.
Có một điều
đáng chú ý là họ Nguyễn chiếm đa số trong các phố Sài Gòn. Dân tộc ta họ Nguyễn
cũng như dân tộc Pháp họ Dupont vậy mà!
Một người
Pháp quen biết kể chuyện rằng thuở Đức chiếm đóng nước Pháp, một khi kia quân
đội Đức bố ráp ở một ngoại ô nhỏ tại Ba Lê để bắt ông Dupont nào đó. Cuộc bố
ráp thi hành xong thì chúng bắt được tất cả tám trăm mười bảy ông Dupont, vừa
già, vừa trẻ, đó là chúng đã loại trừ những cậu Dupont oắt con ra rồi đó.
Một cựu thông
ngôn nhà binh Pháp ở đây cũng kể rằng một khi kia Pháp ruồng bố ở làng nọ để
bắt Nguyễn Thị Hai nào đó. Chỉ một làng ấy thôi, mà họ đã bắt đến bốn mươi tám
Nguyễn Thị Hai chẵn chòi.
Vậy thì họ
Nguyễn chiếm đến 55 con phố ở Sài Gòn – Chợ Lớn không phải là chuyện lạ. Đó là
chưa kể những bà Sương Nguyệt Ánh v.v… cũng là họ Nguyễn mà không nêu họ ra. Bà
Đoàn Thị Điểm cũng có người bảo thật ra là Nguyễn Thị Điểm, và biết đâu cô
Giang, cô Bắc lại không là họ Nguyễn.
Họ Nguyễn
được ưu đãi như thế, còn họ Tô không biết vì sao lại ra rìa. Năm kia trên Hòa –
Hưng có một con phố tên là Tô Hiến Thành. Năm nay không thấy tên phố đó nữa.
Ngoại nhân có
công với dân tộc cũng được nêu danh, cho công bằng. Nhưng không hiểu ông J.J
Rousseau có công trực tiếp gì với dân tộc ta. Còn ba ngoại nhân khác rất có
công là Tích Quang, Nhâm Diên, và Sĩ Nhiếp lại vắng bóng.
Sài Gòn có
một con phố cong queo một cách rất ngộ nghĩnh, được đặt tên là phố Cống Quỳnh.
Thật là khéo, vì cách lập luận và hành động của ông Cống Quỳnh cũng cong cong
quèo quẹo như con phố kỳ dị ấy. Tiếc rằng Cống Quỳnh có lẽ chỉ là một nhân vật
tưởng tượng thôi.
Sài Gòn đặc
biệt vì có phố không vỉa hè, thí dụ đoạn phố Đề Thám trước dãy nhà cũ đối diện
với hông nhà thờ Tin Lành. Thật ra thì có một vỉa hè rộng độ tám tấc, nhưng đã
lì xuống bằng với mặt đường, ô tô tha hồ leo lên và người đi bộ rất lắm khi
phải nhảy vào nhà người ta để thoát chết.
Lại có vỉa hè
mà người đi bộ không được sử dụng, thí dụ vỉa hè Cô Giang tại chợ Cầu Muối.
Người đi bộ ở đoạn nầy hễ xuống đường thì bị xe cán, còn lên lề thì bị mấy chị
bán hàng đuổi, vì mấy chị mướn vỉa hè ấy có đóng tiền chỗ đàng hoàng.
Thành ra qua
đoạn đường đó y như là qua cầu đoạn trường, lên lề thì đoạn tâm, còn xuống thì
đoạn cẳng.
Có lắm vỉa hè
công khai dùng làm ga-ra, nói công khai vì xe để trên ấy nằm đó năm nầy qua năm
khác mà không sao cả. Thế nên chỉ mướn một căn phố bé nhỏ thôi mà người ta có
thể mở ga-ra to là nhờ vậy.
Nói đến vỉa
hè không thể không chú ý đến những vỉa hè mức độ khác nhau, khách đang đi bỗng
sụp chân suýt ngã. Ấy, nhà bên nầy xây cao một tấc năm, nhà bên kia chỉ xây một
tấc thôi mà. Vì mạnh ai nấy xây vỉa hè nên vỉa hè lại mang đủ màu sắc, có quãng
xanh, quãng vàng, quãng xám, và lại kiến thiết bằng đủ cả vật liệu: gạch
xi-măng, xi-măng trắng, gạch thẻ, gạch Tàu, nhựa, đá ong. Sợ nhứt là vỉa hè đá
ong trên đường Thủ Khoa Huân. Đá ong lổm chổm khiến bộ hành không lọi chân cũng
trặc cẳng.
Nếu đô thành
tự làm lấy vỉa hè rồi bắt người ta trả tiền thì tình trạng nầy đã không có.
Bình Nguyên Lộc
Báo Nhân Loại – 1957
Báo Nhân Loại – 1957
304Đen – llttm - dsg
No comments:
Post a Comment