Wednesday, October 7, 2020

Quê Mình Quê Người - Nguyễn Đặng Mừng

 

Quê mình, Quê người





Nhớ những sáng đẹp trời đi uống cà phê vỉa hè Sài Gòn. Cô bé cà phê đon đã, “Hôm nay anh đẹp trai ghê”. Chà, hơn năm mươi rồi mà được gọi bằng anh, dù hơi ngượng nhưng cũng nghe lòng vui vui.

- Hôm nay cháu cũng đẹp ghê.

- Cám ơn anh Hai. Mai em thưởng một ly miễn phí nhé.

Trời đất! mình khen nó, con bé hàng xóm trọ học bán cà phê quán cóc ở đầu hẻm, được nó ban cho tiếng “anh”. Về, sướng mấy đêm ngày liền. Vậy là sáng ra, mình ghiền cà phê.

Một thời gian không thấy nó bán nữa. Và mình nhớ quay quắt hương cà phê đầu hẻm. Bây giờ em ở nơi nao, Hàn Quốc hay Đài Loan…

Vừa rồi gặp nó chạy xe Dylan, mặc áo vest văn phòng, hỏi ra mới biết nó đang làm kế toán cho một công ty lớn. “Em” vẫn cười rất tươi, “Anh khỏe hôn”. Trời đất, thế mà tưởng…Mình tự xin lỗi về những điều mình đã nghĩ về “EM”.

Ngày xưa có mấy nghệ sĩ ngoài Bắc, Trung vào Nam làm thơ làm nhạc hay ra phết. Thi sĩ Nguyễn Bính trong Hành Phương Nam, có câu Tâm giao mấy kẻ thì phương Bắc. À, thế ra Nguyễn Bính chưa mê nỗi miền Nam, còn nhớ miền Bắc với những tâm giao, kẻ ở ngoài đó. Hay là thời đó chưa có cà phê cóc, chưa có những cô bé mười tám đôi mươi gọi thi sĩ bằng anh. Cho nên trong thơ tình Nguyễn Bính ở miền Nam không thấy những hình ảnh như Hai người sống giữa cô đơn, hình như nàng có nỗi buồn giống tôi. Đoàn Chuẩn thì khác, nhạc sĩ có hẵn một bản nhạc cho một mối tình thật lãng mạn: Gửi người em gái Miền Nam, một bản nhạc hay hiếm hoi của những chàng phương Bắc nhớ về phương Nam. Nỗi nhớ đến cháy lòng:

Đêm hôm nao, ngồi nghe qua không gian

Em tôi mơ, miền xưa qua hương lan

Đường phố lóa ánh đèn

Một người trên đất Bắc chờ em! 

Năm ngoái về quê, đi uống cà phê. Trong lúc chờ người bạn, ngồi một mình nhâm nhi. Buồn. Có cô hàng cà phê trạc ba mươi tuổi, hỏi chú chờ ai rứa. Mình không trả lời mà khen: “Em nói giọng Quảng Trị hay ghê”, kiểu như đã từng khen ở Saigòn. Cô nàng quắc mắt lên, môi vễu ra xí một tiếng rồi quay ngoắt vào trong, cùng các bạn nhỏ to chi đó. Chắc là có câu: “Cha già mất nết”.

Có lần ra Đông Hà đi dạo với đứa cháu gái học sinh lớp mười một. Có đám con trai, chắc cũng cỡ hai mấy tuổi ngồi bên đường khen: “Em đẹp quá em ơi”. Cô cháu mình quay lại đanh đá: “Đẹp cái ông nội mi chơ đẹp”. Trời đất! Người ta khen mình phải vui chứ cháu, ai lại rứa. Con bé giải thích, phải vậy cho chúng nó chừa cái thói chọc gái ngoài đường.

Có lần hai vợ chồng mình đi ăn cháo bột. Quán đông, nghe mùi ném đã ứa nước miếng. Vợ chồng mình chọn bàn trong góc để ngồi cho dễ…quan sát. Ngồi chờ gần mười phút chẳng có ai hỏi ăn chi. Mình thấy người ta tự động lấy tô xuống bếp đưa cho chị ngồi vừa xắt bột vừa múc cháo. Thấy vậy mình làm theo. Được hai tô. Cháo ngon quá, hai vợ chồng quyết định “mần” thêm “chuyến nữa”. Vậy là mình lại lấy 2 tô mới khác xuống cho chị bán cháo múc thêm, để 2 tô đã ăn xong lại cho người ta biết mà tính tiền. Mình đang hý hửng bảo với cô bán cháo, một chị cũng gần 40, múp míp, da trắng, ngực phì nhiêu, rằng: “Em ơi cháo bột em ngon nhất Việt Nam đó. Mấy mươi năm rồi tụi anh mới ăn được ngon thế này, mà cô bán cháo lại đẹp nữa”. Cô ả quắc mắt nhìn lên phán: “Vô duyên!". Rồi chăm chăm nhìn hai cái tô trong tay mình phán tiếp: “Ăn uống kiểu ni ông nội ai rửa đọi cho nỗi”. Mình chợt hiểu ra rằng phải lấy hai tô cũ xuống cho chị ta múc lại, đỡ phải rửa nhiều lần, mất công mà cũng vệ sinh. Người đông thế mà không có ai tính tiền. Ai ăn xong cứ tự nguyện xuống bếp trả tiền, tự kiếm nước uống và…về.

 Tôi có người bạn ở nước ngoài lâu ngày về Việt Nam cùng đi Hà Nội chơi cho biết. Phong cảnh và con người Hà Nội thật lịch thiệp, bạn tôi thích lắm. Ngày xưa đọc Tự Lực Văn đoàn chúng tôi thường mơ một lần đến Hà Nội, Hải Phòng để gặp Cô Mai trong Nửa Chừng Xuân, Cô Loan trong Đoạn Tuyệt.

Anh bạn mê ngồi cà phê vĩa hè để ngắm người Hà Nội. Vừa ngồi xuống tôi đã gọi hai ly đen đá. Bạn tôi lại đứng lên bảo qua bên kia đường ngồi hay hơn. Tôi và bạn đứng lên xin lỗi chủ quán. Cô chủ quán điềm nhiên, “Hai anh cho tiền hai ly đen đá”. Tôi cãi: “Cô chưa pha mà”. Giọng cô đanh hẵn ra: “Gọi là phải tính tiền”. Tôi móc tiền trả. Lòng nao buồn. Bạn tôi bảo, “kệ, trả tiền đi, bao nhiêu đâu”. Không phải là bao nhiêu, đấy là cái tình giữa người mua kẻ bán.

Trở về Sài Gòn lại đi cà phê vỉa hè. Cũng lại cảnh cũ diễn ra nhưng sự thể khác hơn. Khi cô hàng cà phê đang pha bốn ly cho cả nhóm thì bạn tôi lại trở chứng. Lại bảo bên kia đường hay hơn. Tôi lại đứng lên móc túi và xin lỗi. Cô nàng đon đã cười rất tươi, bảo: “Các anh chưa uống mà. Lần này không vui lần sau sẽ vui vì các anh vui quá. Mời các anh hôm nào có dịp ghé quán em nhé”. Vậy là bạn tôi ngồi xuống tán chuyện cùng cô cà phê đến 24 giờ mới chịu rời quán. Hôm sau lại đến quán Cô - nàng – Zui Zẽ.

Có người hay phê phán mà không chịu tìm hiểu ngọn ngành. Người Sài Gòn mua bán giỏi là tất nhiên. Từ thời Nam Kỳ thuộc Pháp họ đã sống với “kinh tế thị trường”. Làm ra cái gì, bán cho ai, bán thế nào để giữ khách là bài học thuộc lòng của họ. Còn miền Trung của tôi, cuộc sống tự cung tự cấp, lấy gia đình làm nền tảng nên ít giao thiệp, mua bán một cách bài bản. Trồng được giàn bầu giàn bí chỉ hái nấu canh, thừa thì mang biếu hàng xóm. Tôi còn nhớ mạ tôi có khi cắt nửa trái bầu nấu canh, nửa còn lại treo trên giàn, ruột ứa nước như khóc. Ngày hôm sau màu trắng ruột bầu ngà đi, teo lại tội nghiệp. Trong lúc người Nam bộ họ trồng bầu cả mẫu, bán hàng chục xe tải cho một vụ mùa. Họ còn bán chục mười hai mười bốn để lấy lòng khách. Còn miền Bắc thì qua mấy thế hệ có biết mua bán đâu, chỉ đến cửa hàng thương nghiệp mua theo tem phiếu. Khi vào kinh tế thị trường thì “phở quát”, “bia chờ’ phải tồn tại một thời gian nhất định thôi. Nhanh hay chậm còn tùy vào sự hòa nhập của từng con người, ngành nghề nữa.

Năm 1972 tôi vào Sài Gòn có quen một em nữ sinh Gia Long. Mỗi thứ bảy chúng tôi thường hẹn nhau. Thứ bảy lần đó nhằm ngày tết Đoan Ngọ. Tôi đứng chờ em trước cổng trường. Em dắt xe ra, bảo: “Hôm nay chợ đắt lắm, em phải về chợ Đa Kao phụ má bán hàng. Hay là anh đi theo em về chợ. Xong tụi mình đi chơi, nghen”. Tôi hơi bực mình nhưng thấy em cười hớn hở cũng nguôi. Em lại bảo “Anh chưa thấy em bán hàng phải không, có duyên lắm đó”. Em cho tôi địa chỉ cửa hàng thịt trong chợ Đa Kao rồi lên xe biến mất. Tôi ngoắc một chiếc Ta xi chạy theo. Tôi lòng vòng một chặp thì đúng là em đang mang tạp dề (tablier) đứng chặt thịt thoăn thoắt, vừa nói cười với khách vừa làm việc. Thấy tôi em lại cười reo lên, “mời anh mua thịt”. Trên khuôn mặt lấm tấm mồ hôi không hề lộ chút lúng túng, rất hồn nhiên. Em xem việc bán thịt cũng như đi học. Áo dài trắng với phù hiệu nữ sinh Gia Long có thêu lớp 12C trên đó và cái tạp dề phía dưới trông đáng yêu làm sao. Lại nhớ những bạn “tiểu thư đài các” ngoài mình, sao mà ai cũng “sĩ” thế.

 

Nguyễn Đặng Mừng

304Đen – llttm -MT

No comments: