Cười té ghế hay đau thắt lòng với chữ sửa Truyện Kiều?
Mỗi từ, mỗi câu trong
Truyện Kiều là mỗi viên ngọc long lanh trong kho tàng ngôn ngữ và văn chương
Việt Nam, điều đó có lẽ không cần phải bàn. Nhưng nay có lẽ phải bàn lại vì có
người… chê dở, và đã sửa tới 1/3 tác phẩm!
“Trăm năm trong
cõi người ta
Chữ Tài, chữ Mệnh
khéo là ghét nhau
Trải qua mỗi cuộc
bể dâu
Những điều trông
thấy mà đau đớn lòng
Mỗi người thứ có
thứ không
Trời xanh quen
thói má hồng đánh ghen…”
Đọc những câu thơ trên, ắt hẳn người ta sẽ nghĩ: “Sao mang
máng như Truyện Kiều, mà sao hình như không phải Truyện Kiều?
1/3 kiệt tác bị sửa!
Vâng, nói sao cũng đúng. Là Truyện Kiều cũng đúng, bởi cái
gốc là đại thi hào Nguyễn Du viết ra. Nhưng nói không phải Truyện Kiều cũng
không sai, vì nó đã được/bị ông Đỗ Minh Xuân, một kỹ sư, sửa đi rồi.
Ngay những câu đầu tiên mở đầu kiệt tác, đã bị ông Đỗ Minh
Xuân chọc bút vào. Một câu ông sửa một từ (Trải qua mỗi cuộc bể dâu); còn một
câu ông thay đổi hoàn toàn. Chắc chắn những người đã thuộc câu thơ lấp lánh ánh
ngọc “Lạ gì bỉ sắc tư phong” của đại thi hào, nay trở thành “Mỗi người thứ có
thứ không”, có lẽ không thể nào không bị… sốc phản vệ!
Chuyện cứ tưởng như đùa nhưng lại là có thật 100% ở xứ ta!
Xin đừng nóng vội, “dẽ cho thưa hết một lời đã nao” (Kiều – Nguyễn Du). Đó là
trong cuộc hội thảo Dòng Chảy Văn Hóa Xứ Nghệ – Từ Truyện Kiều Đến Phong Trào
Thơ Mới, tổ chức vào ngày 15/12/2012 tại khu di tích Nguyễn Du (Hà Tĩnh), mỗi
đại biểu tham dự được phát một cuốn sách (bản photo) có nhan đề Truyện Kiều
Nguyễn Du với tiếng Việt hiện đại, phổ thông, đại chúng và trong sáng, do Đỗ
Minh Xuân khảo dịch – NXB Văn Hóa – Thông Tin in năm 2012.
Ông Đỗ Minh Xuân, được biết là một kỹ sư. Không rõ kỹ sư
gì, nhưng thông thường danh từ này dành cho giới kỹ thuật, khoa học tự nhiên.
Thế nhưng ông đã “dày công nghiên cứu, nghiền ngẫm, đối chiếu, so sánh…”, và
ông đã sửa hơn 1.000 chỗ trong Truyện Kiều như thế. Cứ cho là mỗi đơn vị sửa sẽ
rơi vào 1 câu, thì với Truyện Kiều 3.524 câu, ông Xuân đã sửa đến 1/3 kiệt tác
của đại thi hào!
Thật là ngạc nhiên, chưa nói là việc này có giúp làm cho
tác phẩm hay hơn hay dở hơn, thì việc sửa tác phẩm của người khác là điều xưa
nay chưa bao giờ có trong giới văn chương và kể cả các lĩnh vực học thuật khác.
Trước hết, bởi quyền tác giả và trí tuệ của tác giả đã bị xâm phạm.
Lý do ông Xuân đưa ra là, vì người đọc Truyện Kiều ngày
nay, không còn thịnh như trước đây do rào cản về điển tích, từ Hán, từ cổ, từ
địa phương…, trong khi đó chữ nghĩa của Truyện Kiều lại rườm rà, trùng lặp, không
hay, thiếu logic, trái văn cảnh…, nên ông sửa lại cho phù hợp!
Cười đến… dào mạch Tương!
Nói vòng vo không bằng chỉ ra trực diện. Ngoài câu mở đầu
“Lạ gì bỉ sắc tư phong” lấp lánh ánh văn chương đã bị hãm hiếp bởi câu “Mỗi
người thứ có thứ không” đầy cục súc, thì hàng loạt câu, từ, điển cố điển tích…
đã bị ông kỹ sư này ra tay sát hại không thương tiếc. Chiếc cầu Lam, được gọi
là “Lam kiều” một cách thướt tha sang trọng trong câu “Xăm xăm đè nẻo Lam kiều
lần sang”, được ông thay bằng từ “đánh liều”, thì quả thật không có sự… liều
mạng nào bằng!
“Thời trân” thì sửa thành “quả ngon”, “sẵn bày” thành
“xách tay”, nên câu thơ miêu tả hành động của Thúy Kiều, một người con gái khuê
các với mỗi động tác đều dịu dàng thanh nhã, cao sang “Thời trân thức thức sẵn
bày”, thành ra một hành động dung tục “Quả ngon thức thức xách tay”! Nghe cứ
như là nàng Kiều đang ăn trộm trái cây nhà mình cho vào giỏ rồi lén lút mang
sang cho tình lang Kim Trọng!
Trộm nghe thơm nức hương lân,
“Buồng đào nơi tạm
khóa Xuân hai Kiều”! (Đỗ
Minh Xuân)
Nhưng chưa! Điều đáng sợ
là ông Xuân… sợ điển cố điển tích, nên cứ gặp điển cố là ông cố tình gạt ra và
thay vào đó là thứ từ ngữ dung tục của ông! Cái đài Đồng Tước mà Tào Tháo xây
lên để tính vui thú với 2 nàng con gái sắc nước hương trời Đại Kiều và Tiểu
Kiều – vợ của Tôn Sách và Chu Du – hiện lên trong câu thơ của đại thi hào một
cách nên thơ, đẹp đẽ và sang trọng
“Trộm nghe thơm
nức hương lân
Một nền Đồng Tước
khóa Xuân hai Kiều”
đã bị ông Xuân hô biến thành “Buồng đào nơi tạm khóa Xuân
hai Kiều”, nghe cứ như là cái buồng tạm giam tội phạm hình sự!
Không thể nào nói hết cái
ngô nghê, ngớ ngẩn với hành động “sát phạt điển cố” đến kỳ dị của ông kỹ sư.
Trong đêm gió mát trăng thanh, lửa tình nồng nàn, chàng thư sinh Kim Trọng cũng
muốn thụ hưởng cái thơm tho của xác thịt người con gái đẹp như hương như hoa.
Để giữ tiết trinh, nàng Kiều đã dẫn chuyện của cặp đôi Thôi Oanh Oanh và Trương
Quân Thụy trong “Tây Sương ký”. Cặp đôi này vì quá yêu nhau mà đã ăn nằm với
nhau trước khi thành hôn, để rồi sau đó chán nhau, bỏ nhau, khiến người đời sau
cứ tiếc mãi cho đôi trai tài gái sắc mà không thành duyên giai ngẫu:
“Ngẫm duyên kỳ ngộ
xưa nay
Lứa đôi ai dễ đẹp
tày Thôi – Trương
Mây mưa đánh đổ đá
vàng
Quá chiều nên đã
chán chường yến anh
Trong khi chắp cánh
liền cành
Mà lòng rẻ rúng đã
dành một bên
Mái Tây để lạnh
hương nguyền
Cho duyên đằm thắm
ra duyên bẽ bàng…”
Ấy thế nhưng ông Xuân sẵn sàng chém ngay cái điển cố:
“Ngẫm duyên kỳ ngộ xưa nay
Lứa đôi từng thấy
những ngày trái ngang”!
Nàng Kiều thông minh tuyệt đỉnh đã lấy truyện “Tây Sương
ký” để thuyết phục Kim Trọng. Như vậy Kim Trọng mới thực sự bị thuyết phục và
“Thấy lời đoan chính dễ nghe / Chàng càng thêm nể thêm vì mười phân”. Còn nay,
khi ông Xuân cắt quách đi cái điển cố văn học này, thì có nghĩa những lời Kiều
nói chỉ là lý luận suông của nàng. Thử hỏi trong đêm gió mát trăng thanh, người
yêu như hoa như ngọc, rượu đã ngấm, tình đã nồng, có ông thánh nào chịu chấp
nhận những lời lý lẽ suông của người yêu như vậy không?
Lệch lạc, ngớ ngẩn, sai kiến thức, quy chụp… là những thứ
nhan nhản trong “bản sửa” của ông kỹ sư. Vua Thuấn đi tuần thú sông Tương và
chết, hai người vợ là Nga Hoàng và Nữ Anh đi tìm, và ngồi bên bờ sông khóc, rồi
trầm mình tự vẫn. Từ đó “mạch Tương”, “giọt Tương” chỉ giọt nước mắt, là khóc.
Thúy Kiều khóc cho thân phận mình: “Chưa xong điều nghĩ đã dào mạch Tương”. Ấy
thế nhưng ông kỹ sư ngang nhiên sửa thành “trời đã sáng”: “Chưa xong điều nghĩ
đã chào vừng dương”!
Than ôi, còn sự hàm hồ nào bằng!
Còn nhiều, nhiều lắm, vô kể. Thiếp Lan Đình thì gọi là
“thiếp xem tình” (?), Lãm Thúy (có lý giải đây là danh từ riêng) đổi thành
“kiểu dáng”; “đỉnh Giáp, non Thần” ngụ ý chuyện nam nữ mây mưa thì bị cưỡng
hiếp đổi thành “tiên nữ giáng trần”, Chung (Tử) Kỳ – danh từ riêng, một người
nghe đàn giỏi – được biến thành “ngưỡng vì”, lạ hoắc chẳng ăn nhập gì với
nhau!…
Đọc những câu từ được ông kỹ sư sửa lại, người ta không
khỏi ôm bụng mà cười! Thế nhưng, cười nhưng mà đau xót. Cười nhưng mà không thể
không… dào mạch Tương, tức không thể không khóc! Không thể nào nghĩ ra được
rằng, người ta có thể dám ngang nhiên mạo phạm văn chương, mạo phạm tiền nhân
đến như vậy! Nhà thơ Nguyễn Quang Thân gọi hành động này là “vô đạo”, còn ông
Thế Anh, trên tạp chí “Thơ” của Hội Nhà Văn Việt Nam, gọi việc làm, hành động
này là “vô lối”, “hỗn hào”; có người nói đây là hành động bất kính, người thì
cho là hành động phản văn hóa, phản văn chương.
Được
cổ xúy bởi nhà nghiên cứu văn hóa lừng danh!
Cứ như vậy, đến hơn 1.000 chỗ sửa, 1/3 tác phẩm chứ không
phải ít ỏi, tức gần như bất cứ chỗ nào trong Truyện Kiều, cũng bị ông kỹ sư cắt
xé, bức tử!
Điều đáng nói là, việc sửa thơ này của ông kỹ sư lại nhận
được cổ xúy của một bậc giáo sư lừng danh: Anh hùng lao động, nguyên viện
trưởng Viện Xã Hội Học, Giáo Sư Đặng Vũ Khiêu!
Người ta đã kinh ngạc với hành động của ông kỹ sư, thì lại
càng kinh hãi hơn khi biết rằng, hành động này được một bậc danh tiếng, “đức
cao vọng trọng” trong lĩnh vực nghiên cứu văn hóa khuyến khích và tán dương!
Quả thật giới văn chương và học thuật không khỏi ngỡ ngàng rồi kinh sợ, khi đọc
những dòng đề tựa của vị giáo sư này:
“Với một tinh thần khoa học rất nghiêm túc, ông tìm lại
hầu hết các bản Truyện Kiều từ trước đến nay, so sánh các dị bản, ông tìm đọc
hầu hết các bài đã bình luận, phân tích tác phẩm và tác giả Truyện Kiều. Từ đó,
ông đã có ý tưởng lớn là làm thế nào để phổ cập hóa Truyện Kiều cho quảng đại
công chúng, ông gạt bỏ những câu chữ khó hiểu từ tiếng Hán để thay bằng ngôn
ngữ thuần Việt trong Truyện Kiều… Tôi hoan nghênh công phu nghiên cứu của ông
Đỗ Minh Xuân và tin rằng cuốn sách này của ông là một đóng góp đáng kể vào việc
nghiên cứu Truyện Kiều…”
Chính vì vậy chả trách tại sao, cứ mỗi chỗ sửa, ông Xuân tự khen là hay hơn cả
chữ của Nguyễn Du, đến nỗi còn nói nếu cụ Nguyễn Tiên Điền mà sống dậy thì ắt
phải thốt lên “hậu sinh khả úy”!
Quả thật đây là lối nói hàm hồ! Ngày nay, người ta dùng
Truyện Kiều để bói, còn gọi “bói Kiều”. Điều này không phải do nàng Kiều linh
thiêng linh ứng, mà bởi chính vì tác phẩm của đại thi hào quá súc tích, nó đã
chứa đựng tất cả mọi mặt của cuộc sống, của đời người trong đó. Đồng thời, cũng
có nghĩa bất cứ người dân nào cũng biết Truyện Kiều, chứ không phải như ông
Xuân nói là ít người đọc.
Còn việc hiểu, thẩm thấu, phải nói Truyện Kiều là một hiện
tượng đặc biệt: Ngôn ngữ Truyện Kiều là thứ ngôn ngữ văn chương bác học nhưng
diễn đạt lại rất giản dị, khiến mọi người, tất cả những ai, khi đọc đều hiểu.
Người học ít thì hiểu theo mức của người học ít, người học cao thì hiểu theo
cách của người học cao, còn người không biết chữ cũng hiểu được, theo cách của
người không biết chữ. Chẳng vì thế mà ông bà ta xưa, dù không biết đọc chữ Nôm,
vẫn thuộc làu làu 3.524 câu một mạch không vấp. Thậm chí có người mê Truyện
Kiều đến mức, thuộc và đọc ngược nguyên tác phẩm! Thậm chí, dân gian còn thạo
Truyện Kiều đến mức còn tập Kiều, vịnh Kiều, đố Kiều… Biết bao nhiêu là hoạt
động phong phú, thể hiện dân ta đâu có… dốt Kiều, như ông Xuân nói.
Sở dĩ, trong văn học Việt Nam, chúng ta có một khối lượng
đồ sộ tác phẩm, bài viết, công trình nghiên cứu Truyện Kiều, cũng bởi độ uyên
bác, thâm sâu của tác phẩm này, mà tất cả đều nằm trong văn chương, ngôn từ của
tác phẩm. Vậy thì, khi ông Xuân làm một cái việc là “làm cho dễ hiểu”, thì có
còn gì là cái bản thể, cái tinh hoa của Truyện Kiều nữa!
Phải nói, ngôn ngữ trong Truyện Kiều cô đọng, súc tích,
thâm sâu đến mức, cố học giả Đào Duy Anh đã phải viết một cuốn “Từ điển Truyện
Kiều”, giải nghĩa từng từ một theo nội dung tác phẩm. Như vậy, khi ông Xuân kỹ
sư dùng bạo lực can thiệp vào Truyện Kiều thế này, thì có nghĩa công trình của
ông Đào Duy Anh đành phải… vứt sọt rác?
Cách đây gần trăm năm, Phạm Quỳnh, cố học giả, nhà báo,
nhà văn, đã viết: “Truyện Kiều còn, tiếng ta còn. Tiếng ta còn, nước ta còn…”.
Một thời quan điểm của học giả Phạm Quỳnh bị ta chỉ trích kịch liệt. Nhưng đến
giờ, ngẫm lại câu nói của ông vẫn cứ nguyên giá trị.
Nhưng, nếu vậy thì hiện “tiếng ta” có lẽ bị lung lay bởi
việc làm ngông cuồng của một ông kỹ sư! Bởi những viên ngọc long lanh trong Truyện
Kiều đang bị chà đạp bằng một thứ ngôn ngữ cục súc, mà được Giáo Sư Vũ Khiêu
cho là kết quả của một một việc làm “với một tinh thần rất khoa học và nghiêm
túc”, để thực hiện một “ý tưởng lớn”! Nếu thứ sản phẩm của trí óc điên loạn này
mà đem phổ biến ra, tức là thực sự Truyện Kiều đã mất! Mà, cứ tam đoạn luận
theo kiểu Đề Các, thì “Truyện Kiều còn – tiếng ta còn”, nên Truyện Kiều mất thì
tiếng ta… còn đâu! Rồi “tam đoạn luận” nữa: Tiếng ta mất thì nước ta… Hỡi ôi!
Nghĩ đến đây thấy giật mình, không dám nghĩ tiếp nữa! Sợ quá!
Khuyết Danh
304Đen –
Llttm
No comments:
Post a Comment