Cuộc Đời Nhà Văn Duyên Anh
Tôi còn nhớ như in, chiều ngày 30
tháng chạp năm Bính Tý, từ Luân Đôn tôi bàng hoàng nhận được tin Duyên Anh qua
đời ở Paris ngày hôm trước. Tính theo Dương Lịch thì là ngày 6/2/1997.
Tang lễ cử hành 10 giờ sáng
14-2-1997, hỏa thiêu lúc 14 giờ cùng ngày. Cuối cùng, tôi đi tới quyết định
phải kể lại những điều tôi biết về Duyên Anh, để giúp những người ái mộ nhà văn
hiểu rõ hơn về anh, đồng thời đính chính những hiểu lầm của người đời, do vô
tình hay cố ý.
Ngay khi Duyên Anh sống trên đảo
Pulau Bidong chờ được sang Pháp sum họp với vợ con, anh đã liên lạc với tôi ở
Luân Đôn. Và cũng vào thời gian này, rắc rối đã xảy ra. Hồi đó, có người kể lại
với tôi rằng một số người trên đảo nghe nói là Duyên Anh làm ăng ten khi đi tù
cộng sản, nên họ dọa đánh.
Cũng trong thời gian này, con gái
Duyên Anh là Vũ Nguyễn Thiên Hương gửi cho tôi và giáo sư Patrick Honey bản
thảo hai truyện “Đồi Fanta”, và “Một người Nga ở Sài Gòn”. Tôi thấy trong “Đồi
Fanta” tác giả mượn lời mấy đứa trẻ bụi đời để chửi các nhân vật lãnh đạo cũ của
VNCH như Nguyễn văn Thiệu và Nguyễn Cao Kỳ, hoặc nhà văn Mai Thảo.
Tôi dùng bút chì đánh dấu những chỗ
đó rồi chú thích đề nghị Duyên Anh bỏ các đoạn đó đi, với lý do chúng chỉ làm
rẻ tác phẩm mà thôi. Sau đó tôi cảm động và ngạc nhiên khi thấy Duyên Anh nghe
theo lời khuyên mà bỏ những đoạn văn đó. Tôi mừng vì nghĩ rằng môt con người
cao ngạo và bướng bỉnh như Duyên Anh mà bây giờ biết “tu tỉnh” và biết nghe lời
khuyên hợp lý rồi chăng?
Nhưng không lâu sau thì chứng nào vẫn
tật nấy khiến tạo ra biết bao nhiêu là hệ lụy. Tuy nhiên, trong mối giao tình
suốt gần hai thập niên 1980, 90, đã có những lần Duyên Anh chịu lắng nghe tôi.
Có thể nói rằng Duyên Anh mang một
cuộc sống nội tâm nhiều dằn vặt. Phải chăng điều này tạo ra một Duyên Anh bề
ngoài khinh mạn, bướng bỉnh, phá phách? Có những chuyện riêng tư dường như
Duyên Anh chỉ giữ kín trong lòng không hề thố lộ với ai, kể cả người bạn thân
nhất, từng gắn bó với Duyên Anh từ thời trai trẻ hàn vi hồi mới di cư, từng hi
sinh rất nhiều cho Duyên Anh cả về vật chất lẫn tinh thần, là Đặng Xuân Côn.
(Đặng Xuân Côn lớn tuổi hơn Duyên Anh nhưng lấy cô em vợ Duyên Anh, cô Minh).
Đây là ví dụ cho thấy tình thân giữa
hai người bạn, và sự hi sinh của Đặng Xuân Côn dành cho Duyên Anh như thế nào:
Hồi hai người còn nghèo, với đồng lương thư ký và chỉ đi làm bằng chiếc xe mô
bi lét cọc cạch, mà Đặng Xuân Côn dám mua chiếc xe Vespa mới toanh đầu đời cho
Duyên Anh.
Và ba lần vợ Duyên Anh đi sanh, thì
chính Đặng Xuân Côn là người vào bảo sanh viện trông nom săn sóc sản phụ và hài
nhi, khiến cho các bác sĩ và y tá cứ tưởng Đặng Xuân Côn là cha mấy đứa trẻ!
Tôi nghĩ rằng hệ lụy đeo đẳng cuộc
đời Duyên Anh có lẽ từ khi Duyên Anh kết hôn. Duyên Anh theo đạo Phật trong khi
vợ theo đạo Chúa. Song hình như Duyên Anh cũng không quan tâm chuyện tôn giáo.
Nguyễn Ngọc Phương – vợ Duyên Anh –
là con nhà đại điền chủ miền Nam Nguyễn Ngọc Đề, em phó tổng thống thời Đệ Nhất
Cộng Hòa Nguyễn Ngọc Thơ. Ở Long Xuyên có con kinh gọi là kinh Ông Đề, chính do
cha vợ Duyên Anh cho đào để đem nước vô giúp dân làm ruộng. Dù lấy vợ nhà giàu
và có thế lực nhưng Duyên Anh hầu như không nhờ nhà vợ gì cả, vì mẹ ruột Ngọc
Phương mất sớm, và ba chị em gái gặp bà dì ghẻ khắc nghiệt.
Tuy vậy cũng khó tránh được “lời ong
tiếng ve” và chính Duyên Anh sau này có viết mấy lần về thái độ xem thường của
cậu em vợ, để rồi khi đã có danh vọng thì Duyên Anh “tuyết hận” (chữ của Duyên
Anh).
Sau này nhờ có dịp tiếp xúc nhiều nên
tôi được biết khá rõ về tính tình của vợ Duyên Anh. Chính vì giữa hai vợ chồng
không có được mối quan hệ hòa thuận kẻ tung người hứng, hiểu nhau, thông cảm
cho nhau, nên gia đình thỉnh thoảng xảy ra cảnh bất hòa.
Theo ông Trần Kim Tuyến, hồi những
năm trước 1975, cứ trung bình khoảng 2, 3 tháng, vợ Duyên Anh lại đến khóc lóc
nhờ ông và linh mục Thiên Hổ (Nguyễn Quang Lãm, báo Xây Dựng) đi tìm Duyên Anh
vì anh chàng cãi nhau với vợ, đã bỏ nhà đi biệt.
Hai vị niên trưởng lại phải cho người
đi dò la tin tức Duyên Anh, rồi khuyên nhủ hắn về với gia đình. Đã đành vợ
chồng nhà nào cũng đôi khi có chuyện mà người ta gọi là “bát đĩa có khi xô”
nhưng với Duyên Anh hình như tình trạng này không phải chỉ xảy ra “thỉnh
thoảng”.
Sau này, khi đã lâm cảnh mất nước,
mất nhà, thân đi tù đi tội, thế mà cũng vẫn còn cảnh xào xáo lục đục. Lắm khi
tôi cứ giả thiết: nếu Duyên Anh lấy một người vợ tính tình nhu mì, biết cách
chìu chồng, biết nhẫn nhịn chịu đựng, thì có lẽ Duyên Anh đã không gây gổ và có
cuộc sống gia đình thật hạnh phúc. Duyên Anh ham bạn, rồi khi có sẵn đồng tiền
thì lại ham chơi vung vít.
Khi sống cuộc đời tị nạn ở Paris,
không còn tiền để vung vít nữa, nhưng tính ham bạn vẫn còn. Cộng thêm hoàn cảnh
sống gò bó cả tinh thần lẫn vật chất, nên càng thèm bạn và chỉ còn cách tìm sự
khuây khỏa bằng ly rượu. Bởi vậy, trong một lá thư gửi cho tôi hồi cuối năm
1987 trước khi bỏ Paris sang Hoa Kỳ, Duyên Anh thổ lộ tâm sự với tôi, còn bình
thường không hề hé môi.
Trước đó không lâu, Duyên Anh tỏ ra
buồn và cô đơn vì cuộc sống ở Paris không thích hợp với mình, nên đã làm bài
thơ Lưu đầy gồm 100 câu gửi tặng tôi. Hiểu rõ tâm trạng Duyên Anh, tôi đã viết
trả lời bằng bốn câu có giọng hơi trách móc như sau:
“Đến được đây ta ở lại đây
Có ai vui kiếp sống lưu đầy
Sao vội quên câu “sông có khúc…”
Địa ngục, thiên đàng, ai tỉnh say?”
Viết như vậy, nhưng tôi biết rất rõ
rằng Paris không phải nơi có thể cầm chân Duyên Anh được. Tuy nhiên, tôi vẫn
muốn cho Duyên Anh biết rằng đất Mỹ cũng chưa hẳn sẽ là nơi thích hợp với anh.
Bởi vì bây giờ thời thế đã đổi khác.
Những người bạn mà anh tưởng có thể chia bùi xẻ ngọt, những người trước kia đã
nhờ vả anh hoặc tỏ ra hào sảng với anh; tất cả bây giờ đã đổi khác rồi. Sẽ khó
trông mong gì ở họ. Có kẻ gặp vận may trở nên khá giả, nhưng họ làm mặt xa lạ
chứ không nồng nhiệt với anh.
Có những người còn tình nghĩa nhưng
lâm cảnh “ốc chưa mang nổi mình ốc làm sao mang cọc cho rêu”. Tôi cũng nhắc nhở
Duyên Anh rằng nếu vẫn cứ muốn đi Mỹ thì phải rất thận trọng. Vì đất Mỹ vốn có
lối sống rất bạo động, mà bằng cách ăn nói, viết lách đụng chạm, gây thù oán
với nhiều người của Duyên Anh thì khó tránh được tai họa.
Nhưng sau khi đọc hai lá thư cuối
cùng của Duyên Anh viết từ Paris, tôi mới hiểu rõ thêm những nguyên nhân thúc
đẩy Duyên Anh có quyết định dứt khoát.
Trước nhất là sự việc liên quan đến
buổi ra mắt 3 băng cassette nhạc do Duyên Anh thực hiện. Trước đó một thời gian
Duyên Anh viết cho tôi, nói rằng cần tiền để làm việc này. May mắn là một mạnh
thường quân giúp một khoản lớn, một vài anh em khác ủng hộ những món nhỏ. Và
Duyên Anh ngỏ ý “vay” tôi một khoản nhỏ, hứa bán xong cassette sẽ trả ngay. Tôi
đã gửi “ủng hộ, chứ không vay mượn gì cả.”
Chẳng ngờ, khi buổi ra mắt băng nhạc
được tổ chức khá xôm tụ với hi vọng tràn trề của Duyên Anh, thì bất ngờ vợ
Duyên Anh ập đến phá đám. Bởi vì vị mạnh thường quân của Duyên Anh là một phụ
nữ.
Người này tôi đã biết, và khoảng nửa
năm trước đã mời tôi cùng Duyên Anh về nhà ăn cơm. Đây là một phụ nữ đã có hai
con gái học trung học và đại học ở Mỹ. “Bị” mời thì tôi đến, nhưng tôi không tỏ
ý kiến tán thành hay phản đối mối liên hệ này của Duyên Anh.
Vì tôi nghĩ bạn tôi đã quá khôn ngoan
từng trải và nhiều tài hoa do đó đi đến đâu cũng có rất nhiều người mến mộ. Đó
là chuyện… bình thường. Còn tôi “tài hèn trí đoản”, nên chỉ biết an phận mà
thôi.
Vì vụ đánh ghen bất ngờ đó mà Duyên
Anh và vị mạnh thường quân được bằng hữu đưa vội ra cửa sau, biến mất; còn quan
khách cứ tự động giải tán trong sững sờ.
Sau đó, vợ Duyên Anh tịch thu hết
băng nhạc, cho nên không ai mua itđược, và chỉ một số rất nhỏ bạn thân của
Duyên Anh có được các băng nhạc đó mà thôi. Sau vụ này Duyên Anh viết thư cho
tôi.
Nhà văn Duyên Anh (sau 1975)
Tất nhiên, không khí gia đình Duyên
Anh càng kém vui hơn. Có lẽ sự dằn vặt của vợ đã khiến cho Duyên Anh đi đến
quyết định dứt khoát là bỏ gia đình, bỏ Paris để đi Mỹ, mặc dù chưa có quốc
tịch Pháp, mà cũng chẳng có một thứ bảo hiểm nào cả, trong đó bảo hiểm du lịch
là tối quan trọng.
Chính vì vậy mà khi bị hành hung ngày
30-4-1988, Duyên Anh lâm vào tình trạng rất bi đát. Trong lá thư cuối viết từ
Paris, Duyên Anh tỏ cho tôi biết quyết định dứt khoát.
Hình như khi sang Mỹ, Duyên Anh đến ở
với gia đình Đặng Xuân Côn một thời gian ngắn, rồi đi gặp một số bạn cũ và mới,
rồi cũng viết cho một hai tờ báo (hồi đó báo chí Việt Nam ở hải ngoại còn phôi
thai lắm). Và dĩ nhiên, Duyên Anh cũng đả kích vung vít khá nhiều người. Đụng
chạm lớn nhất có lẽ là với mặt trận Hoàng Cơ Minh mà nghe nói hồi đó đang phát
triển mạnh lắm.
Những hệ lụy do Duyên Anh tạo ra
khiến đưa đến vụ hành hung thô bạo. Tôi thương và buồn cho Duyên Anh. Không lâu
sau khi Duyên Anh đến Paris từ Pulau Bidong, tôi đã sang ngay để phỏng vấn và
tường thuật trên BBC.
Còn nhớ, tôi đã chỉ mặt Duyên Anh mà
bảo: “Thôi nhé. Từ nay hãy chôn bỏ những thằng Thương Sinh, Bếp Nhỏ, Thập
Nguyện, v.v… mà chỉ giữ lại thằng Duyên Anh nhé! Để cho người ta thương và
tránh gây thù chuốc oán. Vả lại, viết lách và làm báo ngoài này rất khác với
trong nước như cách các ông quen làm trước 1975.”
Khi đó, Duyên Anh đã cười, trả lời,
“Tôi hứa với ông và thề sẽ chỉ giữ lại một thằng Duyên Anh thôi.” Và vợ Duyên
Anh đã đúng khi nói: “Anh Duyên Anh thề cá trê chui ống!”
Những huyền thoại quanh vụ Duyên Anh
bị hành hung
Đã 29 năm rồi, kể từ cái ngày định
mệnh 30-4-1988, ngày nhà văn Duyên Anh bị đánh suýt vong mạng. Lúc đó là 5 giờ
sáng giờ Luân Đôn. Chuông điện thoại reo, tôi ngạc nhiên bật dậy khỏi giường và
lẩm bẩm, “Ai gọi sớm thế!” Đầu dây bên kia, tiếng vợ Duyên Anh khóc và kể rằng
chồng bị người ta đánh hôn mê bất tỉnh, chắc là chết mất!
Tôi sững sờ, hỏi xem tình trạng Duyên
Anh ra sao. Chị Ngọc Phương vẫn mếu máo, bảo, “Đưa vào nhà thương, nhưng vì anh
Duyên Anh không có giấy tờ, không có bảo hiểm, nên chúng nó vất nằm một xó như
con chó, không biết gì cả. Anh làm ơn gọi ngay cho bệnh viện, bảo lãnh cho anh
Duyên Anh, thì họa may họ mới chữa cho. Anh làm ngay đi!”
Tôi hỏi tên bệnh viện, số điện thoại,
và tên bác sĩ trực hôm đó. Vợ Duyên Anh cho mọi chi tiết. Bây giờ tôi chỉ còn
nhớ được ông bác sĩ hôm đó có tên Fernandez (?) nên đoán ông ta gốc Mễ. Tôi gọi
ngay, xin nói chuyện với ông ta, xưng tên họ, là senior producer trong đài BBC
London, cho số điện thoại sở cũng như nhà riêng, kèm theo địa chỉ.
Tôi cho biết Duyên Anh là một nhà văn
nổi tiếng của VNCH, từ Paris sang Mỹ chơi, chứ không phải một tên vô gia cư. Và
tôi thay mặt gia đình Duyên Anh, hứa sẽ thanh toán mọi phí tổn của bệnh viện.
Sau đó, tôi gọi luôn đại diện Pen Club International ở Mỹ, nói cho biết sự thể,
và đề nghị họ cũng gọi cho bệnh viện để giới thiệu thân thế và sự nghiệp Duyên
Anh.
Tôi lại gọi đại diện Secours
Catholique của Pháp (một tổ chức thiện nguyện Công giáo) yêu cầu họ làm tương
tự. Rồi sau được biết là Đặng Xuân Côn và con trai lớn của Duyên Anh là Vũ
Nguyễn Thiên Chương đã từ Texas bay sang ngay để săn sóc cho Duyên Anh và lo
mọi thủ tục giấy tờ.
Tôi yên tâm vì Đặng Xuân Côn và Thiên
Chương đã có mặt ngay bên cạnh Duyên Anh. Rồi được biết là sau một thời gian
chữa trị trong bệnh viện, Duyên Anh được cho về. Một mạnh thường quân dấu tên
(sau này nghe nói là Bùi Bỉnh Bân), đã bí mật đem Duyên Anh về tiếp tục săn
sóc.
Theo gia đình Duyên Anh thì người này
phải giữ hoàn toàn bí mật, vì vào thời điểm đó người Việt tị nạn sống ở Mỹ rất
hoang mang sau vụ Duyên Anh bị hành hung. Trước đó đã thỉnh thoảng có người bị
khủng bố hoặc sát hại vì bày tỏ thái độ chính trị.
Vợ con Duyên Anh còn sợ rằng kẻ thù
sẽ tiếp tục truy tìm để làm cho Duyên Anh chết luôn hầu bịt miệng. Cơ quan FBI
gặp bế tắc vì cộng đồng người Việt tại Orange County không có ai dám hợp tác để
giúp cho cuộc điều tra truy tìm hung thủ. Người ta sợ và hèn!
Trong khi đó, lại không thiếu những
tin đồn, những lời rỉ tai trong quần chúng cũng như trong giới cầm bút về tình
trạng sức khỏe của Duyên Anh. Những người bạn tốt muốn tìm hiểu sự thực cũng mù
tịt, trong khi có người tung tin là Duyên Anh đã về Pháp rồi.
Thậm chí có một vài ông trong giới
cầm bút còn tuyên bố (như thật) rằng tổng thống Mỹ ra lệnh dùng một chuyến bay
riêng để đưa Duyên Anh về Pháp, có nhân viên FBI đi theo bảo vệ! Ông khác lại
nói rằng tổng thống Pháp ra lệnh đem một máy bay đặc biệt sang đưa Duyên Anh về
Pháp.
Ấy thế mà người Việt mình quả thật
quá dễ tính, cứ tin là có thật. Nực cười nhất là cho đến tận ngày nay mà vẫn
còn có nhiều người tin như vậy!
Vậy sự thật ra sao? Sự thật là sau
một thời gian chờ đợi cho Duyên Anh phục sức để có thể ngồi máy bay về Pháp, tổ
chức thiện nguyện Secours Catholique của Pháp gửi tặng 2 vé máy bay. Một cho
Duyên Anh và một cho một người thân đi theo săn sóc. Chỉ có vậy thôi.
Và từ đó, tại Paris, mỗi tuần Duyên
Anh phải vào bệnh viện mấy lần để cho bác sĩ theo dõi sức khỏe, rồi được cho
tập vận động nhẹ nhàng, nếu không thì sẽ bị bại liệt luôn. Thế rồi, với thời
gian, với việc tập vận động, lần lần Duyên Anh sử dụng được tay trái và chân
trái.
Nghĩa là nửa người bên trái phục hồi
tuy không mạnh như xưa, còn nửa bên phải vẫn liệt. Tôi lại luôn luôn gọi qua
Paris khích lệ để Duyên Anh đừng nản chí. Tôi thường nhắc Duyên Anh về một thí
dụ mà chính Duyên Anh đã viết trong truyện của mình về tấm gương nghị lực và ý
chí phấn đấu không chịu khuất phục trước nghịch cảnh, đó là con gọng vó, một
loài nhện nước chân dài lêu khêu trông như những gọng của cái vó đánh cá.
Trong một đoạn văn, Duyên Anh tả con
gọng vó đứng trên một dòng nước chảy xiết. Nó bị dòng nước cuốn xuôi, nhưng
không chịu thua. Nó gắng hết sức vượt lên, ngược dòng. Rất nhiều lần nó bị cuốn
xuôi, nhưng nó nhất định không chịu khuất phục, lại vượt lên ngược dòng. Và tôi
đã nhắc Duyên Anh hình ảnh con gọng vó để cho Duyên Anh lên tinh thần, khắc
phục nghịch cảnh.
Duyên Anh hứa với tôi sẽ làm như con
gọng vó. Quả nhiên, một thời gian sau, Duyên Anh đã viết bằng tay trái khá
nhanh, tuy không đẹp được như ngày xưa viết bằng tay phải. Ngày xưa Duyên Anh
nổi tiếng viết khá nhanh, chữ nhỏ li ti như con kiến, và rất đều, thẳng tắp.
Bây giờ viết tay trái không nhanh và đẹp bằng, nhưng chữ cũng nhỏ và đều đặn.
Họa vô đơn chí
Duyên Anh bị hành hung 30-4-1988, còn
đang thời kỳ phục hồi sức lực và gặm nhấm đau thương thì thảm họa lại bất ngờ
chụp xuống đầu anh một lần nữa.
Đó là sự mất đi đứa con gái duy nhất
mà Duyên Anh rất thương vì cháu rất thông minh lanh lợi: Vũ Nguyễn Thiên Hương
cùng chồng tử nạn trong chuyến máy bay trở về, sau chuyến đầu tiên về thăm quê
nội làng Tường An, huyện Vũ Thư, tỉnh Thái Bình. Chồng của Thiên Hương là David
McAree, một thanh niên hiền lành gốc Tô Cách Lan. David nói tiếng Việt khá giỏi
và trước kia có thời gian làm cho đài BBC.
Khoảng gần cuối năm 1988, một hôm vợ
Duyên Anh gọi điện thoại than phiền với tôi rằng con gái muốn đem chồng về thăm
quê nội, nhưng chị không muốn. Chị cố thuyết phục và ngăn cản, nhưng nó vẫn giữ
ý định.
Cuối cùng, chị nói, “Tao bảo mày
không nghe, mày cứ đi, nếu mày có rớt máy bay mày chết, tao cũng không thương
đâu!” Tôi kêu lên, “Sao chị ăn nói gì kỳ cục vậy? Nói gở như vậy, nếu rủi có
chuyện gì xảy ra thì chị sẽ ân hận suốt đời đấy!”
Rồi vì bận rộn công việc, tôi cũng
quên chuyện đó. Cho tới một hôm, em trai của Thiên Hương là Thiên Sơn gọi điện
thoại sang báo tin, “Bác ơi! Chị Hương cháu tử nạn máy bay rồi! Bố cháu bảo
cháu báo tin cho hai bác.” Tôi như bị điện giật, sửng người đi một lát mới hỏi,
“Sao? Còn thằng David? Bố cháu nay ra sao?” Sơn đáp: “Cả anh David cũng chết
luôn. Bố cháu chỉ ngồi yên, không nói gì.”
Thì ra, vợ chồng cháu Hương về Việt
Nam, ghé về quê nội thăm họ hàng. Ở chơi ít ngày, David còn nhảy xuống tắm ở ao
làng, cả làng ra xem. Không ngờ trên chuyến bay đến Bangkok trước khi về Pháp
thì máy bay đâm xuống ruộng lúa khi gần tới thủ đô Thái Lan làm 76 người thiệt
mạng.
Bà mẹ góa của David McAree xin đem
hài cốt của con trai và con dâu về chôn trong hai ngôi mộ cạnh nhau gần nhà ở
Tô Cách Lan.
Một thời gian sau, vợ chồng Duyên Anh
được Thiên Chương là con trai lớn cùng Đặng Xuân Côn từ Mỹ sang, đưa đi thăm mộ
Thiên Hương ở Tô Cách Lan. Họ ghé nhà tôi ở Luân Đôn làm trạm nghỉ chân ít
ngày.
Vợ Duyên Anh không ngớt cằn nhằn
chồng tại sao để cho bà sui gia giành lãnh hết tiền bồi thường của hãng hàng
không. Phần Duyên Anh chỉ nói, “Cái mạng con mình đã mất rồi, còn chẳng giữ
được, tranh giành tiền bạc để làm gì?”
Những tháng năm cuối đời
Bị tàn tật, chỉ sử dụng có nửa người
bên trái, lại bị thêm thảm họa mất con gái, Duyên Anh như chết lịm hẳn đi. Nay
trong mắt người vợ, Duyên Anh mất giá hẳn.
Cho nên Duyên Anh lại càng phải nghe
những lới cằn nhằn vốn đã quá quen thuộc. Tôi không ngạc nhiên khi thấy Duyên
Anh rất muốn thoát khỏi không khí tù túng của gia đình.
Thỉnh thoảng Duyên Anh sang ở với tôi
ít ngày. Trong những dịp như thế, tôi lại đưa lên thành phố Cambridge cho anh
thăm ông Trần Kim Tuyến và nhà văn lão thành Lãng Nhân Phùng Tất Đắc.
Những lúc như thế, Duyên Anh vui lắm,
cứ như cá gặp nước. Tuy nhiên, tôi vì bận công việc nên khó thu xếp thời giờ để
luôn luôn giúp bạn vui. Ngay như ở Paris, không dễ gì để Duyên Anh có thể đi
đây đi đó gặp gỡ bạn bè. Họa hoằn mới nhờ được người đem xe đến chở đi. Và
người có lòng tốt cũng lại ngại ngùng không muốn làm phật lòng bà Duyên Anh.
Hình như bà không muốn chồng đàn đúm,
vui vẻ với bạn bè. Ngày xưa Duyên Anh còn khỏe mạnh, sẵn tiền bạc, danh vọng,
thì có lý do chính đáng để bà giữ chồng vì sợ tính nết trăng hoa của chồng đã
đành. Nhưng nay Duyên Anh đã tàn phế, thất thế, không tiền bạc, mà bà cũng
không muốn cho chồng ra ngoài.
Khoảng giữa năm 1995, chẳng hiểu vì
sao, Duyên Anh phải kéo lê cái va li nhỏ, được bà đầm hàng xóm kêu giùm cái xe
taxi, để đến tá túc ở nhà bà Bích Thuận. Rồi bà Bích Thuận bị vợ Duyên Anh gọi
điện thoại dùng lời lẽ khá bất nhã.
May quá, dịp đó bác sĩ Tuyến đang có
mặt ở Paris, liền mua vé máy bay cho Duyên Anh sang Luân Đôn, định đến ở nhà
tôi. Nhưng lại gặp rủi, là vì đúng ngày hôm sau tôi phải lên đường đi Việt Nam
công tác sáu tuần lễ. Nên Duyên Anh phải lên Cambridge ở 3 tuần với bác sĩ
Tuyến. Sau đó ông lại mua vé cho Duyên Anh sang Mỹ.
Sang California, Duyên Anh được một
số đàn em cưu mang: ở với Vũ Trung Hiền một thời gian, rồi Nguyễn Kim Dung đón
về ở một thời gian. Trong những năm này, có lần Duyên Anh trở về Paris để lấy
quốc tịch Pháp. Nghe nói cũng thời gian này, FBI cử nhân viên sang Paris gặp
Duyên Anh, cho biết họ đã tìm ra kẻ hành hung Duyên Anh trước kia.
Nếu Duyên Anh muốn thì khởi tố, họ sẽ
bắt và đưa hung thủ ra tòa. Nhưng Duyên Anh trả lời rằng anh không muốn làm gì
nữa. Người Mỹ làm việc quá chậm, còn anh thì đã cảm thấy chán hết mọi chuyện
rồi. Thôi hãy bỏ đi! Cho nên vụ án này chìm và bị quên luôn!
Không phải tới năm đó Duyên Anh mới
“bỏ qua” vụ án. Năm 1991 Duyên Anh sang nhà tôi. Tôi đã phỏng vấn để phát trên
đài BBC. Khi được hỏi về vụ bị hành hung, Duyên Anh trả lời không còn thù hận
gì những kẻ hành hung mình. Duyên Anh bảo họ cứ sống thản nhiên, đừng lo ngại.
Theo anh, có thể người ta nghĩ rằng anh đã sợ. Nhưng ai muốn nghĩ sao tùy ý.
Điều xót xa đau đớn cho Duyên Anh là
trong những tháng năm cuối đời, khi đã thất thế, thân thể tàn tật, chỉ có thể
sử dụng được tay trái và chân trái, nói năng cũng chậm chạp, đầu óc không còn
minh mẫn như xưa, nên lắm khi cần phải có người giúp đỡ trong các sinh hoạt
hàng ngày.
Vốn là người nhiều nghị lực và tự ái,
Duyên Anh cố gắng, không muốn nhờ vả ai cả. Ngay trong gia đình đã thiếu đi
tình thương yêu và sự an ủi săn sóc của một người vợ hiền.
Cứ nhìn cảnh Duyên Anh ngồi ăn cũng
đủ thấy hoàn cảnh bi đát của anh. Thường thường, Duyên Anh thích được ăn cơm để
trong cái tô lớn, có chan canh, để có thể dùng tay trái xúc bằng muỗng mà ăn.
Gặp những món ăn cứng, thái miếng to, hay phải gắp bằng đũa thì chịu chết!
Đã vậy, còn bị đổ vãi ngoài ý muốn.
Có khi chỉ vì một sự bất ưng ý nào đó, tô cơm đang ăn bị lấy đi, đem đổ vào
thùng rác! Cho nên, đã từ lâu rồi, Duyên Anh chỉ muốn vùi đầu vào ly rượu để
quên đời, quên sầu tủi.
Con người Duyên Anh
§ Cái xấu
Ai cũng biết rõ là Duyên Anh có quá
nhiều kẻ thù. Ấy là do tính tình ngang bướng, cao ngạo. Nhưng tại sao Duyên Anh
có giọng điệu cao ngạo, xem thường thiên hạ? Tôi đã hỏi thẳng Duyên Anh điều
này thì được trả lời, “Ông thấy tôi khi vào đời chưa nổi tiếng, chưa là cái gì
cả, chỉ mới viết được có vài bài phóng sự gây tiếng vang, thế là linh mục Trần
Du (nhật báo Hòa Bình) vội đội tôi lên. Rồi khi tôi đánh vài thằng tướng tá,
chính khách tham nhũng và hèn, thì chúng nó cúp đuôi lại. Còn các bậc đàn anh
mà tôi tin tưởng và quí trọng, hóa ra toàn là phường đạo đức giả hết. Thế thì
làm sao tôi không khinh chúng nó, tôi không lộng?”
Khi đã có “thế” rồi, Duyên Anh khinh
đời, bắt đầu viết lách, ăn nói bừa bãi, xem trời bằng vung, thì thiên hạ lại
càng ngán. Cũng có người giữ thái độ “tránh voi” hoặc “không dây với hủi”
Tôi hỏi Duyên Anh rằng ngày xưa có
bao giờ dùng ngòi bút để tống tiền người ta không, thì được trả lời, “Không.
Nhưng khi tôi mới tung ra một bài điều tra về chuyện lem nhem ở một bộ – như Bộ
Kinh tế chẳng hạn – thì lúc tôi đang ngồi ở bàn phé, tên bộ trưởng cho anh thư
ký đem đến cho tôi cái phiếu mua xe Lambrette rẻ. Một lát sau, một anh khác đến
xưng là người nhà của đối thủ của anh bộ trưởng, đưa tôi một phong bì. Tôi đang
thua phé, thì dại gì không nhận hết? Còn hôm sau tôi viết gì là chuyện khác!
Tôi chẳng bênh thằng nào cả. Cần phang là tôi vẫn phang.”
Duyên Anh còn có lối ăn nói như vả
vào mặt người đối thoại khi không bằng lòng người ta, bất kể thân sơ. Ví dụ một
lần ngồi ăn ở Paris, trong cuộc tranh luận với Lê Trạch Lựu (tác giả bài Em
tôi) về âm nhạc và liên quan đến nhạc sĩ Lương Ngọc Châu.
Lê Trạch Lựu lớn tiếng khoe: “Mày nên
nhớ là tao ở gần anh Lương Ngọc Châu mấy chục năm rồi nhé!” Duyên Anh đáp liền:
“Mày ở gần anh ấy mấy chục năm thì mày biết được anh ấy có mấy cái mụn ghẻ chứ
mày biết gì!”
Chúng tôi phì cười cả. Một lần khác,
tôi và Duyên Anh đang ngồi trong quán thì một anh tên M ở Paris đã lâu nhưng
chẳng có sự nghiệp gì cả, bước vào và đến bàn chúng tôi nói dả lả mấy câu.
Chẳng ngờ Duyên Anh chặn liền: “Thôi anh hãy đi về mà tắm đi đã, vì anh hôi lắm
không thể nói chuyện văn nghệ với chúng tôi được!”
Tôi đá nhẹ vào chân Duyên Anh dưới
gầm bàn ra ý trách móc thì Duyên Anh nói nhỏ: “Thằng này chuyên đi dò la rồi
báo với Pháp những quán ăn, cửa hiệu nào của người Việt trốn thuế, tôi khinh
nó!”
Lại một lần khác trong quán của bà
Đào Viên là bạn chúng tôi, một anh ăn mặc có vẻ diêm dúa, xán đến nịnh Duyên
Anh: “Tôi rất quí anh Duyên Anh. Tôi thích những anh em làm văn nghệ như anh”.
Ai ngờ Duyên Anh đập lại liền: “Anh biết gì về văn nghệ mà đòi nói chuyện văn
nghệ với chúng tôi?”
Ngoài ra, Duyên Anh còn bị nhiều
người ghét, vì thói viết chửi bới người ta. Số người bị là nạn nhân của Duyên
Anh không ít. Đến nỗi một lần mấy thân hữu ở Paris nói với tôi, “Ông Duyên Anh
chửi hết mọi người, chẳng từ ai cả. Chỉ còn có ông Vĩnh Phúc là chưa bị chửi
thôi. Chưa, chứ không hẳn là không đâu nhé!” . Tôi chỉ cười chứ còn biết nói
sao?
Tuy nhiên, hình như Duyên Anh có sự
đối xử đặc biệt dành cho tôi. Có những lần bị tôi nói thẳng, sửa lưng, mà Duyên
Anh không giận. Hay là Duyên Anh thấy tôi… vô hại, nên không chấp? Tôi thấy một
điều là Duyên Anh rất thèm bạn, những người bạn chân tình, không dối trá.
§ Cái tốt
Nhân vô thập toàn. Ngoại trừ các bậc
thánh, còn phàm nhân, ai cũng có một phần xấu và một phần tốt. Những bậc hiền
sĩ, những người giàu lòng khoan hòa độ lượng thì sẵn sàng bỏ qua cái xấu, lỗi
lầm của tha nhân.
Riêng tôi dễ chấp nhận một người bạn
với cả cái xấu lẫn cái tốt, miễn là người đó thực lòng với tôi. Có người hỏi tôi
tại sao Duyên Anh tai tiếng và có nhiều kẻ thù như vậy mà tôi vẫn thân, tôi chỉ
có thể trả lời rằng chắc chắn tôi không thuộc số những người thù ghét Duyên
Anh, và vì tôi quí tài của Duyên Anh.
Theo tôi, Duyên Anh đa tài. Nếu tài
của Văn Cao bao trùm 3 lãnh vực thi, nhạc, họa, thì Duyên Anh cũng có khả năng
cao khi viết văn, làm thơ, và soạn nhạc. Nhưng trước hết, cũng cần nói rằng
Duyên Anh là người thông minh, lanh trí, óc tưởng tượng phong phú, và có một
trí nhớ rất đáng nể (khi chưa bị đánh đến chấn thương não bộ).
Học hành chẳng có bằng cấp gì, nhưng
chịu đọc, chịu học ở trường đời; và sự hiểu biết, sự suy nghĩ vượt xa nhiều
người mang những học vị cao.
Có lần ngồi uống rượu ở Paris, khi đã
líu luỡi rồi, mà Duyên Anh còn có thể đọc liền một lúc 390 câu thơ anh đã làm
trong tù.
Ở nhà tôi bên Luân Đôn, Duyên Anh
nói, “Ông cứ cho tôi uống rượu đi, tôi say, tôi đọc thơ cho ông nghe”. Duyên
Anh không thích rượu mạnh, chỉ uống rượu chát, và hai thứ anh ưa nhất là Côte
du Rhône và Beaujolais. Tuy nhiên nếu bạn bè khui rựơu hiệu gì, Duyên Anh cũng
hoan hỉ chấp nhận, không kén chọn.
Về tài năng làm thơ và viết tiểu
thuyết của Duyên Anh, hiển nhiên tôi chẳng cần đề cập. Nhưng có lẽ rất ít người
biết là Duyên Anh cũng viết nhạc. Và đáng lẽ đã có 3 băng cassette được trình
làng khoảng giữa năm 1987. Đó là các băng “Ru đời phù ảo”, “Còn thoáng chiêm
bao”, và “Hôn em kỷ niệm”, nhưng buổi ra mắt ở Paris bất ngờ tan vỡ vì bà vợ
Duyên Anh đến phá khiến cho Duyên Anh và vị nữ mạnh thường quân phải biến mất
qua cửa sau.
Tất cả các băng nhạc bị vợ Duyên Anh
thu hết không cho bán ra. Bởi vậy nhạc của Duyên Anh chìm luôn, chỉ vài bạn
thân còn giữ được do Duyên Anh gửi tặng từ trước.
Sau này nhân một dịp Mai Hương được
mời hát mấy bản ở California, nên có một số người được biết và còn nhớ.
Nhạc của Duyên Anh mang nét đặc biệt
khác lạ, từ những nốt đang hát khó đoán được những nốt kế tiếp. Chính Mai Hương
đã nói rằng “nhạc của Duyên Anh khó hát. Nếu vô ý rất dễ rớt đài”. Ngoài ra, ý
và lời đẹp, nhiều tính sáng tạo, giống như ý và lời trong văn và thơ của Duyên
Anh vậy.
Theo tôi, trong Duyên Anh có hai con
người. Nếu muốn cũng có thể bảo rằng hai con người đó tượng trưng cho hai mặt
tốt và xấu của Duyên Anh.
Mặt xấu chính là Duyên Anh làm báo,
dưới những bút hiệu như Thương Sinh, Bếp Nhỏ, Thập Nguyên, Mõ Báo v.v… vì “đánh
đấm” lung tung nên bị nhiều người oán ghét. Còn Duyên Anh nhà văn, nhất là nhà
văn của tuổi thơ, nhà văn viết cho tuổi ô mai, Duyên Anh chủ trương tuần báo
Tuổi Ngọc, thì trái hẳn lại, được nhiều người thương.
Có ai đã đọc “Con sáo của em tôi” mà
không thấy lòng mình chùng lại và dám nói là thù ghét Duyên Anh?
Nguyễn Mạnh Côn là người đầu tiên đọc
truyện ngắn này, thích quá, nên giới thiệu và chọn đăng ngay. Rồi Nguyễn Mạnh
Côn bảo Duyên Anh, “Cậu viết hay quá! Nhưng tôi sợ rằng viết như thế này, cậu
sẽ không thọ!”
Và câu nói của Nguyễn Mạnh Côn đã như
một lời tiên tri: Duyên Anh lìa đời cách đây 20 năm khi mới 63 tuổi. Vào thời
buổi này, với những điều kiện vật chất văn minh và đầy đủ, mà sống có bấy nhiêu
năm thì quả là “yểu mệnh” thật.
Tiểu sử nhà văn Duyên Anh (1935-1997)
Duyên Anh tên thật là Vũ Mộng Long,
những bút hiệu khác là Thương Sinh, Mõ Báo, Thập Nguyên, Vạn Tóc Mai, Lệnh Hồ
Xung, Thái Anh, Nã Cẩu, Bếp Nhỏ, Bếp Phụ và Độc Ngữ.
Ông sinh ngày 16/8/1935 tại làng
Tường An, huyện Vũ Thư, tỉnh Thái Bình. Ông học tiểu học và trung học ở Thái
Bình và Hà Nội. Năm 1954, ông di cư vào Nam và từng làm đủ nghề: bán thuốc sơn
đông mãi võ, theo đoàn cải lương lưu diễn, quảng cáo cho gánh xiếc rong, giữ xe
đạp hội chợ, dạy kèm, dạy đàn ghi ta, dạy sáo.
Năm 1960, được sự nâng đỡ tận tình
của nhà văn Nguyễn Mạnh Côn, Duyên Anh bắt đầu sự nghiệp văn chương và nổi
tiếng ngay với tác phẩm đầu tay Hoa Thiên Lý. Tiếp theo đó là một loạt Thằng
Côn, Thằng Vũ, Con Thúy…. viết về những kỷ niệm ấu thơ tại miền quê Bắc Việt,
giọng văn tha thiết, nhẹ nhàng và tình cảm.
Sau đó ông trở thành một ký giả, chủ
bút, chủ báo, giám đốc nhà xuất bản. Duyên Anh đã cộng tác với hầu hết những tờ
báo lớn ở miền Nam trước năm 1975 như: Xây dựng, Sống, Chính Luận, Công Luận,
Con Ong, Tuổi Ngọc…
Có một dạo, Duyên Anh thường viết về
giới giang hồ, bụi đời trong xã hội trước năm 1975. Trong tác phẩm của Duyên
Anh ca ngợi lối sống phóng khoáng, bất cần đời của giới trẻ bị bế tắc trong
cuộc sống. Tuy nhiên vẫn thấm đậm một tính cách nghĩa khí và các nhân vật của
Duyên Anh đều sẵn sàng chết vì tình nghĩa và chữ tín của mình. Các tác phẩm mổi
tiếng phải kể đến “Ðiệu ru nước mắt”, “Luật hè phố”, “Dzũng ÐaKao”, “Vết thù
hằn trên lưng con ngựa hoang”, “Nặng nợ giang hồ”, “Bồn Lừa”…
Sau sự kiện 30 tháng 4, 1975, cùng
với Doãn Quốc Sĩ, Dương Nghiễm Mậu, Nhã Ca, Phan Nhật Nam, Thanh Tâm Tuyền,
Duyên Anh bị liệt danh là một trong 10 nghệ sĩ nêu danh là “Những Tên Biệt Kích
của Chủ nghĩa Thực Dân Mới Trên Mặt Trận Văn Hóa – Tư Tưởng” và tác phẩm bị cấm
lưu hành.
Ngày 8/4/1976, Duyên Anh bị bắt đi tù
cải tạo trong Chiến dịch bắt văn nghệ sĩ miền Nam (tháng 4/1976). Sau khi ra
khỏi trại cải tạo vào tháng 11/1981 ông vượt biên đến Malaysia. Tháng 10 năm
1983 Duyên Anh sang định cư tại Pháp. Một số tác phẩm ông viết ở Hải ngoại được
dịch ra tiếng nước ngoài và dựng thành phim, như “Đồi Fanta”, “Một Người Nga ở
Sài Gòn”. Thời gian này, ông cũng có viết thơ và soạn nhạc. Năm 1985, ông bắt
đầu cộng tác với tờ Ngày Nay và trở thành một trong những cây bút trụ cột của
báo này.
Ngày 6/2/1997, Duyên Anh mất vì bệnh
xơ gan tại Paris, Pháp.
Vĩnh Phúc
No comments:
Post a Comment