Lá Diêu Bông
Xã hội là môi trường sống của con
người. Ngôn ngữ là phương tiện giúp con người giao lưu với xã hội. Sống đồng
nghĩa với đối thoại. Tuy nhiên ngôn ngữ là ngôn ngữ chung. Sử dụng ngôn ngữ
chung để diễn tả tâm tình riêng vốn là một công việc vô cùng khó khăn và phức
tạp. Dưới chế độ độc tài hà khắc, người cầm bút đã phải vừa vận dụng ngòi bút
với tất cả khó khăn của ngôn ngữ chung, vừa tinh vi lách tránh công an văn hóa
bằng kỹ thuật: dùng cái hư làm nổi bật cái thực, nhắc đến cái thực với ẩn ý đẩy
sự suy nghĩ hướng về cái hư. Đó là lý do giải thích tại sao trong lòng của chế
độ CSVN đã xuất hiện một số các tác phẩm văn học nghệ thuật mang nội dung kỳ bí
gần như huyễn hoặc. Không khí kỳ bí và huyễn hoặc kia là cả một lời mời gọi,
thiết tha bao nhiêu, xoáy tim óc bấy nhiêu. Trên đỉnh cao nhất của thế giới
thiết tha nhưng xoáy tim óc này, chúng ta tìm thấy bài thơ Lá Diêu Bông của thi
sĩ Hoàng Cầm.
Lá Diêu Bông
Váy Đình Bảng buông chùng cửa võng
Chị thẩn thờ đi tìm
Đồng chiều
Cuống rạ…
Chị bảo:
Đứa nào tìm được lá Diêu Bông
Từ nay, ta gọi là chồng.
Hai ngày,
Em tìm thấy lá
Chị chau mày:
– Đâu phải lá Diêu Bông.
Mùa đông sau,
Em tìm thấy lá
Chị lắc đầu.
Trông nắng vãn ven sông
…
Ngày cưới chị
Em tìm thấy lá
Chị cười
Xe chỉ ấm trôn kim
Chị ba con
Em tìm thấy lá
Xòe tay phủ mặt
Chị không nhìn
Từ thuở ấy…
Em cầm chiếc lá
Đi đầu non cuối bể
Gió quê vi vút gọi
Diêu Bông hời…
Ới Diêu Bông…!
Hoàng Cầm (1959)
Chúng ta hãy khảo sát bài thơ Lá Diêu
Bông trên cả ba mặt: bản thể nhận thức và phương pháp.
BẢN THỂ của Bài Thơ LÁ DIÊU BÔNG
Hình ảnh vào đề bài thơ là hình ảnh
lạnh lùng của chiều đông, trên cánh đồng ngổn ngang “cuống rạ”, người chị tâm
sự với em:
“Đứa nào tìm được lá Diêu Bông
Từ nay ta gọi là chồng”
“Hai ngày sau”, “mùa đông sau” người
em khoe với chị:
“Em tìm thấy lá”
Mỗi lần em khoe “tìm thấy lá”, chị
lại lắc đầu:
“Đâu phải lá Diêu Bông”
Thời gian trôi qua mà chẳng có “đứa
nào tìm được lá Diêu Bông”, người chị đành phải đi lấy chồng:
“Ngày cưới chị
Em tìm thấy lá
Chị cười
Xe chỉ ấm trôn kim”
Có một lần, sau khi chị đã lấy chồng,
người em lại khoe:
“Em tìm thấy lá”
Lần này, người chị phủ định một cách
dứt khoát:
“Xòe tay phủ mặt
Chị không nhìn”
Mặc cho người chị dứt khoát không tin
ở sự xuất hiện của lá Diêu Bông, người em vẫn miệt mài đi tìm Diêu bông… Thế
rồi, đời sống thật là thảm sầu:
“Em cầm chiếc lá
Đi đầu non cuối bể
Gió quê vi vút gọi
Diêu Bông hời…
Ới Diêu Bông…!”
Đi tìm bản thể của bài thơ Lá Diêu
Bông tức là đi tìm ẩn ý nằm đàng sau các câu hỏi: Chị là ai? Em là ai? Tại sao
Lá Diêu Bông lai là một loài lá chỉ có trong mộng tưởng? Phần nhận thức về bài
thơ Lá Diêu Bông sẽ cho chúng ta đáp số đối với các câu hỏi vừa nêu.
NHẬN THỨC về Bài Thơ LÁ DIÊU BÔNG
Nhận thức về bài thơ Lá Diêu Bông tức
là nhận thức về mối liên hệ giữa tác giả và nội dung của tác phẩm. Đồng thời
cũng là nhận thức về thái độ đón nhận tác phẩm từ phía người đọc. Trước hết,
chúng ta hãy ghi nhận hai chi tiết sau đây của bài thơ:
– Chi Tiết Một: Bài thơ được mở đầu
bằng hình ảnh gợi nhớ một chiều đông, trên cánh đồng trơ “cuống rạ”. Câu chuyện
trong thơ là câu chuyện diễn ra trong nhiều năm: Mùa đông này rồi lại đến “mùa
đông sau”.
– Chi Tiết Hai: Bài thơ được sáng tác
vào năm 1959. Trong liên hệ giữa mùa này với mùa kia: mùa Đông đến sau mùa Thu.
Trong liên hệ giữa năm này với năm kia: Năm 1959 đến sau năm 1945.
Mang hai chi tiết nêu trên đặt cạnh
nhau, chúng ta thấy ngay rằng Lá Diêu Bông là bài thơ có chủ ý diễn tả những
cảm nghĩ của tác giả về một sự việc đã thực sự xảy ra và thực sự có những yếu
tố hiển nhiên để đánh giá. Sự việc đã xảy ra là sự việc gì? Đối với Hoàng Cầm,
một nhân vật trọng yếu của vụ án Nhân Văn Giai Phẩm, sự việc đã xảy ra chẳng
thể là gì khác hơn cái gọi là: Cách Mạng Mùa Thu 1945. Mùa thu là mùa của “cách
mạng” thì mùa đông là mùa nhân dân bắt đầu thắc mắc về “cách mạng”. Điều này
cho chúng ta thấy không phải vô tình mà vấn đề Lá Diêu Bông được đặt ra vào mùa
Đông. CSVN đã trả lời hoài nghi của nhân dân đối với cách mạng bằng hai biến
cố: Cải Cách Ruộng Đất và vụ án Nhân Văn Giai Phẩm (1956).
Hoàng Cầm đã tài tình dùng hình ảnh
chị và em để nói lên mối liên hệ giữa thế hệ này và các thế hệ sau. Chị là biểu
tượng của thế hệ này: Thế hệ của những người Việt Nam đã thực sự đau khổ dưới
ách Cộng Sản, có kinh nghiệm về Cộng Sản. Em là biểu tượng của các thế hệ sau.
Các thế hệ sau bao gồm những người vẫn còn tin tưởng ở một lúc nào đó, tại một
nơi nào đó “các em” sẽ tìm được lá Diêu Bông.
Bây giờ chúng ta hãy trở về với nhân
vật người chị. Đối với một thiếu nữ: ước mơ tha thiết nhất, ước mơ trang trọng
nhất là ước mơ gặp được một người chồng tâm đầu ý hợp. Ước mơ này đồng dạng với
ước mơ của nhân dân có được một chánh quyền thực tâm phục vụ tự do dân chủ. Ý
niệm về tự do dân chủ đơn giản và rõ ràng như hình ảnh một chiếc lá. Thế nhưng
đối với “ngụy quyền kiểu CSVN” thì tự do dân chủ phải là một loại lá không có
thật: Lá Diêu Bông. Biết được thực chất phản dân chủ của CSVN, chị nói với em:
“Đứa nào tìm được lá Diêu Bông
Từ nay, ta gọi là chồng”.
Chữ “đứa” ở đây rõ ràng là cách xưng
hô của chị đối với em. Văn hóa Việt Nam không cho phép vợ gọi chồng bằng “đứa”.
Do đó, câu thơ vừa trích dẫn ở trên không thể bị hiểu rằng: Đứa nào tìm được lá
Diêu Bông, từ nay ta gọi đứa đó là chồng. Vậy thì người chồng mà người chị để ý
tìm kiếm là ai? Thưa rằng: Như đã trình bày ở trên, người chồng chỉ là hình ảnh
biểu tượng cho nhà cầm quyền. Câu nói của người chị nên được hiểu như sau:
Người nào chứng minh được nhà cầm quyền CSVN thực sự tôn trọng tự do dân chủ
(có được lá Diêu Bông), từ nay “ta” gọi nhà cầm quyền đó là chính quyền. Và dĩ
nhiên, “ta” chấp nhận làm người dân ngoan ngoãn của chính quyền. Thái độ của
“ta” chẳng khác nào thái độ của bà vợ hiền bên cạnh ông chồng mẫu mực.
Ngay sau “Cách Mạng Mùa Thu”, guồng
máy tuyên truyền của CSVN làm việc rất tích cực và ồn ào. Mỗi thắc mắc của quần
chúng về tự do dân chủ (Lá Diêu Bông) đều được cán bộ Cộng Sản nhanh nhẩu giải
đáp. Tuy nhiên:
“Hai ngày
Em tìm thấy lá
Chị chau mày
Đâu phải lá Diêu Bông”
Thế rồi với thời gian, thực chất phản
dân chủ của CSVN càng ngày càng phơi bày trắng trợn. Và, cũng với thời gian,
người dân (người chị là biểu tượng) đành phải bó tay trước bạo lực của “ngụy
quyền CSVN”, đành phải miễn cưỡng chấp nhận mối quan hệ “quan chức” và nhân
dân. Quan hệ này được ẩn náu dưới quan hệ vợ chồng. Trong tình huống đó, nhóm
chữ “tự do, dân chủ” chỉ có ý nghĩa của một mỉa mai:
“Ngày cưới chị,
Em tìm thấy lá
Chị cười
Se chỉ ấm trôn kim”
…
Điều đau đớn nhất nằm ở sự thể rằng:
Không riêng gì chị, mà con cháu chị, các thế hệ sau chị vẫn phải sống, phải
tiếp tục âm thầm và nhọc nhằn bước trên con đường tuyệt đối không tự do dân
chủ:
“Chị ba con
Em tìm thấy lá
Xòe tay phủ mặt,
Chị không nhìn”
“Chị không nhìn” có nghĩa là chị đã
hoàn toàn nhìn ra: tất cả những gì mà CSVN gọi là tự-do dân-chủ chỉ là chiêu
bài. Thế nhưng thật là xót xa cho các thế hệ đàn em. Họ vẫn miệt mài đi tìm Lá
Diêu Bông. Lá Diêu Bông sẽ không bao giờ có. Có chăng chỉ là muôn vạn sinh linh
trong Cải Cách Ruộng Đất đang quyện vào “gió quê” để tạo thành lời than vãn bi
thiết về một tự-do dân-chủ chỉ có trong mộng tưởng:
“Từ thuở ấy…
Em cầm chiếc lá
Đi đầu non cuối bể
Gió quê vi vút gọi
– Diêu Bông hời…
Ới Diêu-bông…!
Bằng bài thơ Lá Diêu Bông, thi sĩ Hoàng
Cầm có chủ ý nói với thế hệ chúng ta và các thế hệ mai hậu: đi tìm tự-do
dân-chủ dưới chế độ Cộng Sản, chắc hẳn chúng ta sẽ đi đến kết quả: “Em đi trăm
núi, ngàn sông, nào tìm thấy Lá Diêu Bông bao giờ!” (nhạc và lời Phạm Duy).
PHƯƠNG PHÁP LUẬN của bài thơ LÁ DIÊU
BÔNG
Theo lời của tác giả Lý Kiệt Luân, có
một lần Hoàng Cầm đã tâm sự với thân hữu: “Cái cuộc đời của tôi, ngẫm nghĩ cái
gì cũng thế… nó cứ bị trói gom lại như… như… cái lá Diêu Bông! Nếu có ai bắt
nguồn với tôi, dù chỉ là quen biết sơ khai ban đầu thì nó cũng từ cái lá Diêu
Bông mà ra… Cho nên phải nói: nó là cái lá Định Mệnh của tôi hơn là gọi nó như
là tên của một bài thơ” (Việt Nam News – Xuân Ất Hợi – trang 85).
Lời phát biểu kể trên của thi sĩ
Hoàng Cầm chỉ là một kiểu nói khiêm tốn. Trong thực tế, Hoàng Cầm đã ban cho Lá
Diêu Bông một sinh mệnh, chứ Lá Diêu Bông không hề tạo được định mệnh cho Hoàng
Cầm. Bằng phương pháp nào Hoàng Cầm đã mang sinh mệnh đến với Lá Diêu Bông?
Sinh mệnh của thi phẩm chính là sức sống của thi phẩm đó trong lòng người. Nói
đến lòng người tức là nói đến sự thuận hợp với Lịch Sử quan. Cách nay hơn bốn
thập niên, mặc dù bị chế độ Cộng Sản bưng mắt bịt tai, Hoàng Cầm vẫn nhìn ra Sử
Quan con người: lấy tự-do dân-chủ làm hướng tiến của lịch sử. Lá Diêu Bông chuyên
chở ba chủ ý:
– Tố cáo chế độ CSVN phản dân chủ,
nhân quyền.
– Nói lên nỗi đau khổ của người dân
bị “ép duyên” phải sống với chế độ độc tài.
-Trình bày những di hại của chế độ
phản dân chủ qua nhiều thế hệ.
Điều quan trọng không là tác giả đã nghĩ
gì khi sáng tác ra bài thơ. Mà điều quan trọng chính là những cảm nghĩ của
người đọc trải dọc theo chiều dài sinh mệnh của bài thơ. Người nghệ sĩ không
thể và không cần tiên liệu mọi phản ứng của người đọc đối với tác phẩm của mình
sau một thời gian dài tác phẩm đó đã đi vào dòng đời. Người nghệ sĩ bao giờ
cũng sáng tác trên lập luận rằng: Bên cạnh tiêu chuẩn về nghệ thuật, phương
pháp xây dựng sinh mệnh cho tác phẩm đòi hỏi tác giả phải có khả năng tạo điều
kiện cho tác phẩm sống thuận chiều với lịch sử. Nói cách khác, tác giả cần có
lịch sử quan thích nghi.
Tóm lại, bản thể của Lá Diêu Bông là
ước vọng tự do dân chủ được gói ghém bên trong một câu chuyện thiết tha, trữ
tình và duyên dáng. Nhận thức của Lá Diêu Bông là những nhận thức đạt mức quân
bình hữu lý giữa hai nhu cầu. Bên này là nhu cầu an toàn của người cầm bút. Bên
kia là nhu cầu chuyển gửi một cách trung thực những cảm nghĩ sâu sắc của tác
giả đến với người đọc. Phương pháp của Lá Diêu Bông là phương pháp vận dụng
lịch sử quan con người, lịch sử quan của tự-do dân-chủ nhân-quyền nhằm gầy dựng
sức sống bền bĩ và hấp dẫn cho tác phẩm. Trên cả ba mặt bản thể, nhận thức và
phương pháp, Hoàng Cầm quả thực là tác giả tuyệt hảo của Lá Diêu Bông.
Đỗ Thái Nhiên
304Đen – llttm -tvvn
No comments:
Post a Comment