BÀN VỀ
THÀNH-KIẾN “XƯỚNG CA VÔ LOẠI”
Trồng
trầu để lộn giây tiêu
Con theo hát bội mẹ liều con hư!
hoặc
là :
Nhỏ
mà không học lớn làm ngang
... Hèn chi chúng nói bội là bạc
Bôi mặt đánh nhau, cú lại thoi.
Đều biểu-lộ một quan-niệm cho rằng kép hát, đào hát và luôn cả đám
ca-nhi đờn hát đều là phường xướng ca vô loại.
Đó là một quan-niệm đã có từ đời phong kiến với vua chúa ngồi trên ngai
vàng, với ông tổng trấn thích tiêu khiển bằng môn hát bội, có ban hát riêng,
hoặc với ông chánh tổng, ông đại hương cả cầm chầu tha hồ thưởng phạt, xem đào
kép như tôi tớ.
“Xướng ca vô loại” là
gì?
Với trào-lưu dân chủ, ngành hát bội, hát cải lương đang tiến lên, đòi
hỏi nhà cầm quyền và giới sĩ phu dành cho nghệ sĩ một địa-vị xứng đáng, ít nhứt
cũng ngang hàng với các ngành nghệ thuật khác như thi ca, hội-họa, điêu khắc
hoặc báo chí. Họ đã đòi được tới đâu? Được xem là một bộ môn, một giới có sứ
mạng văn hóa chưa?
Nếu đòi hỏi được rồi thì bài này trở thành vô ích. Còn bảo rằng chưa thì
không đúng thực tế. Ở đây, chúng tôi không đề cập về mặt pháp lý vì anh em nghệ
sĩ sân khấu đã bình đẳng với các giới khác về mặt công dân rồi. Họ được quyền
bầu cửa, ứng cử, đứng tên mua xe hơi, ký giấy tờ vay nợ, và được đi thi nếu họ
muốn (xưa kia kép hát không được đi thi.)
Phương diện tinh thần đáng nói hơn. Vì trong thực tế, chúng t thấy đôi
khi anh em nghệ sĩ cải lương có chút ít (hoặc nhiều) mặc cảm tự ti đối với nghệ
sĩ các ngành khác, đối với văn hóa. Khi gặp một giáo sư hoặc một ông bộ trưởng,
anh em tỏ ra rụt rè, muốn ngồi riêng một cõi, chào hỏi ngượng ngập. Cũng như
khi gặp một ký giả nào đó, anh em buộc lòng ngừng xe lại để chào hỏi, xưng ‘em’
(mặc dầu lớn tuổi hơn anh ký giả nọ). nhưng rồi lát sau, khi xe chạy, anh em
lại gọi anh ký giả bằng ‘thằng’.
Ngay trong đại gia đình nghệ sĩ cũng vậy, người trong nghề dương như
chẳng tin cậy vào lòng thành thật của nhau. Hai anh nghệ sĩ nọ thề bán sống bán
chế để lập gánh, rồi rả gánh, công kích nhau. Để rồi lại tái hợp. Tình nghĩa
bạn bè là thế. Đến như tình nghĩa vợ chồng thì dường như mỏng manh hơn. Đôi vợ
chồng nghệ sĩ – chồng và vợ đều là nghệ sĩ – mà sống với nhau đến răng long tóc
bạc thì thật là hy hữu, đếm trên đầu ngón tay. Một thương gia nào đó cưới đào
hát thì được người đời e ngại giùm cho cuộc thí nghiệm, cuộc phiêu lưu về tình
cảm.
Tóm lại, thiếu tánh chất cố định, thiếu lòng chung thủy. Một sự phiêu
lưu về tình cảm. Ngụy biện quá giỏi; đi thì có lý do, ở thì cũng có lý do não
nùng xá đáng. Nghề sĩ tuy có nhà cửa cố định, giúp cho đoàn hát trình diễn
thường trực tại ráp nào đó có địa điểm cố định, không di chuyển, nhưng họ cứ
lâng lâng, ngỡ mình là nghệ sĩ đang dấn bước giang hồ, một lữ khách cởi trên
lưng lạc đà qua miền sa mạc vô tận. Và lạc đà cứ đi, mặc dầu có chó sủa.
Xướng ca vô loại.
Bốn tiếng ấy nghe mệt nhọc quá. Anh em nghệ sĩ chắc từng nghe lời bình
phẩm ấy hàng ngàn lần, hàng vạn lần, không nghe nói thẳng trước mặt thì cũng
nghe nói lén sau lưng. Hoặc khi nửa đêm thức giấc, soi gương đối bóng, bốn
tiếng ấy lại vang ra, có lẽ từ tiềm thức, từ tim đen, từ trong lương tâm. Nghe
mãi rồi nhàm, không còn nghe nữa, như khi mưa giầm. Một giọt mưa, mười giọt mưa
rơi trên mái nhà thì người ta đếm được. Nhưng mưa mãi mưa hoàn hóa ra chẳng còn
mưa, chẳng còn tiếng động nào nữa. “Sống hiên ngang thì nên bất chấp dư luận, thứ
dư luận xấu, cứ tai ngơ mắt điếc”. Nhiều anh chị em tự nhủ thế nhưng rồi hoang
mang thấy rằng dư luận ấy có phần đúng.
Nghệ sĩ mau già, sớm có nếp nhăn trên trán phải chăng vì bốn tiếng xướng
ca vô loại? Bốn tiếng ấy là một kẻ thù ngoại xâm, từ ngoài đời đánh vào. Khốn
thay, kẻ thù ấy lại là nội thù, từ trong tim, từ trong lương tâm đánh ra. Bị
nội công và ngoại kích như vậy, ai chịu cho nổi? Chỉ có nghệ sĩ mới chịu nổi.
Và vì chịu nổi, nghệ sĩ mới là nghệ sĩ!
Bốn tiếng cay nghiệt ấy có nghĩa gì? Thiên hạ bảo rằng, đó là thành
kiến, tức là sự nhận định sai lầm. Tại sao mãi đến ngày nay thành kiến ấy chưa
được gột rửa? Và nếu đọc qua các tin vắn ở các trang kịch trường của nhựt báo,
chúng ta thấy dường như thành kiến ấy không phải là thành kiến. Nó là sự thật.
Người ta không cố ý nói xấu, vu oan cho giới nghệ sĩ đâu. Mặc dầu có một số
người bày tỏ thiện chí, minh oan cho nghệ sĩ nhưng nỗi oan ấy vẫn còn. Những vị
trạng sư ấy dường như chẳng bao giờ biện hộ, chạy tôi được cho các can phạm vì
họ bị bắt quả tang, mỗi ngày, mỗi tháng. Nhiều can phạm lại thuộc vào hạng cố
lỳ, với bao nhiêu tiền án.
Bốn tiếng ‘xướng ca vô loại’ ấy xuất phát từ đâu?
Chúng tôi đã thử tìm tòi. Đại khái, có nghe được sự tích như vầy: năm
đó, hồi đời vua Tự Đức, nhà vua đến ngự lãm một chầu hát bội. Nhà vua hơi bực
dọc về cách bố trí nhân vật, diễn viên. Anh kép chánh đóng vai Tể tướng. Con
gái của anh kép lại đóng vai vợ quan Tể tướng. Ở ngoài đời, đó là cha với con.
Trên sân khấu lại là chồng với vợ. Vua Tự Đức đã cảnh cáo ban hát bội ấy với
câu: “Đồ xướng ca vô loại.”
Giai thoại vừa kể trên chỉ là lời truyền khẩu, chẳng có sách vở nào ghi
chép chánh thức. Vô loại, theo nghĩa ấy, là vô luân lý, là loạn luân.
Ngày nay, và có lẽ từ lâu rồi, chúng tôi tưởng rằng chẳng còn ban hát nào
thiếu đào kép hoặc bị kẹt đến mức bố trí diễn viên quái gở như vậy nữa. Không
còn việc bố trí loạn luân ấy thì lẽ dĩ nhiên, bốn tiếng ‘xướng ca vô loại’ đã
bị giết chết, chẳng còn ai nhắc nhở.
Nhưng nó còn. Chúng ta thử tìm hiểu nguyên nhân khác.
Vô loại, theo định nghĩa thông thường là sống ngoài luân lý, vi phạm tam
cang ngũ thường, vi phạm thuần phong mỹ tục. Hiện nay, nhiều người hiểu ‘vô
loại’ theo nghĩa ấy, xem như lời nguyền rủa. Phản bạn, nói dối không biết
ngượng miệng, lừa đảo, hút xách, cờ bạc, chửi cha mắng mẹ, quên ơn thầy… tức là
vô loại.
Nếu hiểu theo nghĩa ấy, thì ngay trong xã hội, còn bao nhiêu kẻ vô loại
trong giới gian thương, giới trí thức giả hiệu, giới chánh khách xôi thịt. Thế
thì tại sao hai tiếng vô loại vẫn đi liền với hai tiếng xướng ca không ai đánh
tan nổi? Tại sao người ta không phát minh ra luận điệu trí thức vô loại, thương
gia vô loại?
‘Xướng ca vô loại’ là câu nói vơ đũa cả nắm chăng? Một con sâu làm rầu
nồi canh chăng?
Muốn giải thích, chúng tôi thử tìm những nguyên nhân sâu xa khác. Mấy
tiếng ác nghiệt ấy còn được nhắc vì nó dựa trên một căn bản có thực, vững chắc.
Căn bản ấy không phải là luân lý.
Đó là căn bản xã hội, căn bản tâm lý của các giới khác khi họ nhìn giới
nghệ sĩ cải lương nói riêng, giới nghệ sĩ sân khấu, giới ca sĩ, thi sĩ văn sĩ
nói chung.
Theo lối phân chia cổ điển thì xã hội được cấu tạo do các giới Sĩ Nông
Công Thương. Lối phân chia này quá đơn giản nhưng còn được nhiều người chấp
nhận. Ít ra, về mặt hình thức, nó cũng hơi đúng một phần nào.
Nghệ sĩ sân khấu là giới nào vậy?
Xin bắt đầu từ dưới lên trên.
Nghệ sĩ không phải là thương gia. Nghệ sĩ không có vốn mà tiền bạc là
tiêu biểu. Cách diễn xuất, sắc vóc, giọng ca là món hàng bán cho khán giả
chăng? Món hàng ấy lấy gì làm tiêu chuẩn?
Nói đúng hơn, món hàng ấy chẳng đo lường được. Số tiền mà khán giả mua
vé vô cửa rạp chỉ là tượng trưng, đánh dấu sự vô cửa. Tùy trình độ, tùy tâm hồn
của mình mà khán giả khen hoặc chê. Một vở tuồng làm vừa lòng người này, lắm
khi nó làm mất lòng người kia. Vở tuồng ấy được quan sát, tiêu thụ dưới mọi
khía cạnh. Khán giả này thì cho rằng đêm ấy cô đào chánh diễn xuất tuyệt diệu;
khán giả kia cãi lại, bảo rằng anh kép phụ hoặc anh hề là người nổi bất nhứt.
Khi xem, khán giả rơi nước mắt ở màn thứ nhì. Vài năm sau, nhớ đến tuồng ấy,
khán giả ấy lại ngùi ngùi nhớ đến màn thứ ba, quên lửng màn thứ nhì mà ông ta
đã khóc. Cũng với một giá vé vô cửa trăm bạc hoặc 50 bạc, đôi khi khán giả
thích thú vô cùng, muốn thưởng thâm cho nghệ sĩ bạc ngàn, bạc vạn vì đêm hát
quá hay, khán giả cho rằng tiền vé vô cửa thật quá rẻ. Họ xuất ra số tiền có
hạn để mua một lạc thú tinh thần vô giá, quý hơn ngọc ngà châu báu. Hoặc ngược
lại, gặp đêm hát quá dở, học nổi giận tự cảm thấy xấu hổ như vừa bị móc túi.
Nghệ sĩ sân khấu cung cấp món ăn tinh thần – khác hẳn anh chủ tiệm ‘chạp
phô’ cung cấp gạo, nước mắm. Món ăn tinh thần là loại vô giá, không đo lường
bằng tiền bạc được, không cấp thiết. Thiếu cơm gạo con người chết đói. Thiếu
xem hát trong đôi ba tháng, chẳng ai chết cả. Tóm lại, nghệ sĩ sân khấu không
phải là thương gia.
Nghệ sĩ sân khấu không phải là công nhân, cũng vì lý do trên. Nghệ sĩ
sản xuất món ăn tinh thần. Thời vua chúa, ‘công’ có nghĩa là thợ tiểu công
nghệ, người thợ tiểu công nghệ nếu lành nghề thì nghiễm nhiên trở thành thợ
cái, làm thầy những người mới tập sự và trở thành chủ nhân một xưởng nhỏ.
Thợ mộc đóng bàn ghế, bàn ghế là món hàng có hình thức rõ rệt. Món hàng
của đào kép trên sân khấu lại là thứ sản phẩm phù du như bóng chấp chờn, cứ
thay đổi. Nếu nghệ sĩ là công, theo nghĩa xưa thì đó là công nhân hạng đặc
biệt.
Nông gia, nông dân chăng? Nhứt định không phải. Nghệ sĩ hành nghề nơi
mát mẻ, xa lánh cuộc sống chân lấm tay bùn. Thời xưa và mãi đến thời nay, nhiều
người chán cảnh chân lấm tay bùn quanh năm cày cấy nên tìm lối thoát bằng nghề
ca hát. Do đó nhiều người quan niệm rằng bọn hát xướng thật sung sướng vì cứ ở
không mà ca hát, ăn mặc bảnh bao rồi cũng có cơm ăn như ai. Một lối sanh nhai
đi quanh về tắt theo kiểu ký sanh trùng.
Và cùng là làm việc về tinh thần nhưng nghệ sĩ sân khấu không được liệt
vào hàng kẻ sĩ. Ngược lại, nghệ sĩ sân khấu thời vua chúa là tôi tớ của kẻ sĩ,
của giới sĩ phu, tức là giới quan lại, thượng thư, án sát, lãnh binh hoặc phú
hào, những người chịu ơn mưa móc, sống bằng bổng lộc của nhà vua. Giới sĩ
phu soạn ra tuồng tích. Nghệ sĩ sân khấu phải thực hiện tuồng ấy, không được
thêm bớt một chữ, không được xuyên tạc một điệu bộ. Hát hay thì khen thưởng,
hát dở thì đánh đòn. Quan lại ngày xưa thích biểu dương sự sang trọng bằng cách
đài thọ ban hát, sắm ban hát riêng, tự do đuổi người này, gọi thêm người kia.
So với tôi tớ, gia nhân thì đào kép được sung sướng hơn nhưng số phận thì không
khác.
Đứng vào tiêu chuẩn sĩ nông công thương mà xét, chúng ta thấy nghệ sĩ
sân khấu thuộc vào hạng người lạc đề, không phải là hạng người nào rõ rệt.
Người ta nhớ mang mán hoặc hiểu chắc chắn rằng nghệ sĩ sân khấu giống như hạng
người thầy phù thầy pháp, nhưng không giống hẳn. Thầy phù thầy pháp tuy là
người nhưng lúc lên xác họ trở thành một hiện tượng khác, là con người bằng
xương bằng thịt cũng ăn cũng sống nhưng lúc ‘hành sự’ thì trở thành thần
thánh hay ma quỉ.
Thời xa xưa, khi con người sống trong tổ chức bộ lạc ở miền sơn cước, ở
rừng sâu thì vị pháp sư – tiền thân của nghệ sĩ sân khấu – là chúa tể. Ông ta
là người thay mặt cho thần Mặt Trời, thần Mưa, thần Gió. Vì vậy ông ta được
quyền ăn mặc khác thường: đội mão có sừng, tay cầm gậy cong queo, cổ thì đeo
nanh cọp, mặt mày sơn phết vằn vện. Ai cãi lời hoặc chống đối thì bị ông ta
giết. Lúc ông ta lên xác, trở thành thần thánh thì người trong bộ lạc quì lậy
để cầu mong mưa thuận gió hòa.
Xã hội nông nghiệp tiến dần, ông vua ông chúa xuất hiện. Mấy ngài pháp
sư thường xuất hiện bên cạnh vua chúa, trở thành vị quân sư phụ ta. Lúc nắng
hạn, lúc cầu phong đảo võ hoặc trước khi ra trận, vị pháp sư đóng vai quan
trọng. Lắm khi, vị pháp sư âm mưu khuynh đảo ngai vàng, đưa ra lời sấm truyền
về đại họa đất sụp, núi lở…
Nhưng loài người lần lần làm chủ vạn vật. Vai trò của pháp sư không còn
quan trọng nữa. Muốn cai trị đám lê dân thì nhà vua thừa lệnh trời, xưng là
Thiên tử, điều khiển một bộ máy quan lại chặt chẽ. Thầy pháp thầy phù chỉ còn
kiếm ăn bằng cách trị bịnh, lên đồng lên bóng. Họ lên đồng lên bóng theo ‘sách
vở’ cố định, xưng danh, chào gia chủ, điều khiển đám binh ma, rồi ‘thăng’. Họ
làm đám người không lợi hại.
Văn chương thi phú, âm nhạc phát triển thêm. Đã xuất hiện những truyện
thành văn hoặc truyền khẩu và phường tuồng, phường chèo thành hình. Ở nước ta,
hát chèo hát bội xuất hiện từ đời nhà Trần; ở Âu Châu, các đoàn hát cũng ra đời
rất trễ.
Nội dung của hát bội hát chèo thêm phần phong phú, trong đó con người,
lần lần đóng vai chánh, thay vì thần thánh đóng vai chánh như hồi thời sống
trong bộ lạc! Con người gặp cảnh éo le trước nợ nước tình nhà đã ứng phó như
thế nào trước định mạng? Đề tài nới rộng thêm, con người có thể vạch một con
đường tương lại, một phương thức tranh đấu chống nghịch cảnh để thí nghiệm trên
sân khấu. Nhiều ban hát ra mắt, trình diễn tuồng tích do sĩ phu soạn ra. Họ trở
thành một phường, như phường chài, phường thợ rèn, thợ một với một ông tổ (tiên
sư); tổ chức của phường chèo, phường hát giống như các phường khác: bực đàn anh
kẻ cả đứng đầu, bọn tập sự chưa đủ tuổi nghề đứng hàng dưới, trên nói dưới
nghe, gọi dạ bảo vâng.
Phường chèo, phường tuồng – vẫn thuộc vào loại ngoại hạng – giống với
các phường khác về hình thức nghề nghiệp nhưng khác về nội dung. Họ cung cấp
những sản phẩm tinh thần để mua vui cho thần thánh, cho vua chúa quan lại, cho
dân chúng trong chốc lát.
Dụng ý của vua chúa sĩ phu là thế. Mua vui có nghĩa là nịnh bợ, ca ngợi.
Trong thực tế những loại tuồng tích để mua vui ấy lắm khi gây nhiều tác dụng
phức tạ, trực tiếp.
Nó xác nhận rằng người trung lắm khi mắc nạn, bị bọn nịnh thần dèm xiểm,
ám hại. Nó chứng minh rằng các vị hôn quân có thể bị cận thần giết bất ngờ, thê
thảm. Và người làm lành, ăn ở lương thiện thì luôn luôn được Trời Phật, tiên
thánh đoái tưởng. Và những âm mưu ăn hối lộ, nịnh bợ, những thói xấu ghen
tương, say mê tửu sắc, những tham vọng ích kỷ được phơi trần.
Tới đây, nhiều bạn đọc sẽ thắc mắc:
– Thi văn sĩ, ký giả, họa sĩ cũng làm như vậy thôi! Tại sao giới cầm bút
cầm cọ lại không mang tiếng là vô loại?
Chúng tôi xin trả lời:
– Có mang tiếng đó chớ! Thi sĩ bị xem như kẻ từ cung trăng rơi xuống,
như con ve sầu, ký giả là người… nói láo. Nhưng bao nhiêu tai tiếng nặng nhứt
đều dồn vào giới nghệ sĩ sân khấu.
Vì nghệ sĩ sân khấu ‘độc hại’ hơn. Họ làm cho khán giả vui, họ làm cho
khán giả sợ. Vui và sợ trực tiếp. Nghệ sĩ là con người thực, trên sân khấu.
Đối với người viết văn, cuộc đời được thu gọn vào trang giấy với những
chữ a, chữ b sắp hàng. Đối với nghệ sĩ trình diễn, cuộc đời, cả mặt đất bao la
được thu gọn trên sàn gỗ chật hẹp, với điệu bộ, lời ca, ánh sáng thay cho nét
chữ.
Sân khấu ấy, sàn gỗ ấy đóng vai trò hậu trường của cuộc đời. Nó phơi bầy
trước ánh sáng bao nhiêu sự thật, bao nhiêu điều cao đẹp hoặc xấu xa mà con
người giữ kín.
– Sân khấu lấy bóng tối làm ánh sáng. Nó phơi bày tâm tình đen tối của
con người trước ánh sáng. Và ánh sáng trở thành tối. Khi thưởng thức, khán giả
bị chôn trong bóng tối vì cuộc đời của khán giả đã bị tạm thời xóa đi, dời lên
sàn gỗ. Các nghệ sĩ đã lập luận đúng khi nói rằng: “Khi diễn xuất xuất thần,
mình xem như phía dưới khán giả chẳng có ai cả.” Đó không phải là khinh khi
khán giả, nhưng là trọng khán giả vì nghệ sĩ đã thâu hồn khán giả lên sân khấu,
nơi có ánh sáng để cùng nhau sống, cùng nhau mổ xẻ.
– Sân khấu lấy thật làm giả, lấy giả làm thật. Một người mới hai mươi
tuổi nếu hóa trang khéo, diễn xuất đúng thì trở thành y hệt một cụ già. Một anh
kép hiền lành, khi diễn xuất trở thành kẻ hung bạo trong vai hung bạo. Hiền hóa
dữ, trẻ hóa già trong chốc lát. Mớ râu giả trở thành râu thiệt, khi thấy học
máu giả, khi chết giả, người xem vẫn rùng rợn như đang chứng kiến thứ máu thật
của cái chết thật sự.
– Sân khấu lấy khán giả làm diễn viên, diễn viên làm khán giả. Sự kiện
này chỉ xảy ra khi sân khấu đạt tới mức tinh vi. Chúng ta thấy nhiều khán giả
chửi rủa hoặc lấy khăn lau nước mắt khi xem một cảnh cảm động. đó là lúc khán
giả ngỡ rằng minh đang sống trong cuộc sống trên sân khấu. Xưa kia, nhiều bà
lão đã tiến tới trình độ cao hơn, các bà tay mắc kẹt dưới ghế khán giả nhưng
vẫn diễn xuất tới mức bằng cách ném cái ống ngoáy khá nặng vào mặt một tên nịnh
thần gian ác trên sân khấu. bà ngỡ rằng mình là diễn viên.
– Sân khấu lấy chuyện có làm không, chuyện không làm có. Trong đời sống
thực tế, nhiều người làm ác mà vẫn sống dai; sân khấu chứng minh rằng người làm
ác phải chết… trên sân khấu. Cuộc đời còn đầy dẫy những người mắc oan, sống
trong đời tăm tối; sân khấu chứng minh rằng trong tương lai… vài chục năm sau,
ngay trên sân khấu, sau khi màn hạ rồi còn kéo lên là những người ấy được giải
oan, sống với niềm tin tưởng, trong cảnh xán lạn, trước khi vãn tuồng.
Lấy bóng tối làm ánh sáng
Lấy thật làm giả, lấy giả làm thật
Lấy khán giả làm diễn viên
Lấy hiện tại làm tương lai
Lấy sàn gỗ làm vũ trụ lớn, lấy khoảng thời gian 3 tiếng đồng hồ của xuất
hát làm một khoảng ‘trăm năm trong cõi người ta’!
Cái sanh hoạt ngược ngạo, huyền bí, lộng giả thành chơn ấy khiến cho
người đời nghi kỵ, nhứt là những người đang mang mặc cảm tội ác, những người
muốn trái đất đừng quay để sự vật đừng biến đổi. Bởi vậy, nhiều người thường
nói với bạn bè hoặc khuyên răn con cháu:
– Cứ xem hát để giải trí, xem rồi bỏ qua, xem cho vui vậy thôi. Chớ khá
tin nơi tuồng hát. Và chớ khá tin bởi vì những diễn viên ấy là bọn vô loại, lấy
ngày làm đêm, nửa người nửa ma, nửa tiên nửa tục.
Những kẻ cho rằng ‘xướng ca vô loại’ đã có ác ý muốn che giấu sự thật,
muốn ngăn cản bước tiến của xã hội. Họ sợ luật quả báo, họ sợ luật thế sự đổi
dời của nhà Phật. Họ thấy nhân vật trên sân khấu rồi họ lo sợ cho tương lai, e
rằng tương lại của họ lại giống như cách giải quyết trên sân khấu.
Người ta nói xấu các nghệ sĩ sân khấu vì lý do đó. Lý do ấy là sự hóa
thân của nghệ sĩ, lúc hành nghề – một sự hóa thân đáng e ngại cho thân phận
khán giả.
Theo ý chúng tôi thì ăn nhậu, nói dóc, cờ bạc, ký ngân phiếu không tiền
bảo chứng là tật xấu, chúng ta nên cố gắng chừa bỏ. Nhưng nếu nghe ai bàn tán
mỉa mai, chê bai xướng ca vô loại thì nghệ sĩ nên bình tĩnh để vững lòng tin.
Bởi vì nghề nghiệp, nghệ thuật sân khấu đòi hỏi như vậy. Không làm như
vậy thì khán giả chê. Mà làm như vậy thì khán giả cũng cười.
Đó là một số ít khán giả.
Nói chung người ái mộ sâu khấu đã thông cảm và còn khuyến khích việc hóa
thân của nghệ sĩ. Nghệ sĩ cứ làm công việc của người tiên tri, người phù thủy –
bất chấp tiếng bấc giọng chì.
Cứ vạch nẻo sáng dành cho kẻ làm thiện.
Cứ vạch những hình phạt dành cho kẻ gian ác.
Đeo đẳng mãi cái nghiệp xướng ca, nghệ sĩ thường buồn bã lâng lâng, thấy
mình tuy dính dáng trong xã hội nhưng lơ lơ lửng lửng như cái bóng, như ảo ảnh.
Nhứt là khi màn chót đã từ từ hạ, khán giả ra về, sân khấu tắt lịm và chỗ ngồi
và chỗ đi của khán giả lại sáng sủa. Nghệ sĩ cảm thấy đau buồn hơn bao giờ hết,
mặc dầu trong túi sẵn có bạc vạn. Vì họ mất vai tuồng, mất chỗ đứng. Họ không
còn là vua, là tiên… nữa.
Dưới mắt họ, đường phố, xe ngựa qua lại, dục vọng, tiền tài, cuộc tranh
sống trở thành cuộc đời, trở thành sân khấu thực tế, ban ngày, lúc họ không
đứng trên sàn gỗ. Bỗng dưng mà họ bị té chới với, trở thành khán giả bị động.
Họ buồn tủi, tức giận không chịu thua và muốn đóng một vai gì ngoài đường phố
để giữ đất đứng.
Tuy đã rời sàn gỗ, người đời vẫn soi mói, gọi nghệ sĩ lúc uống cà phê,
lúc dạo phố, lúc tắmrửa là… nghệ sĩ. Nghệ sĩ bị dán nhãn, chụp mũ. Bởi vậy,
nghệ sĩ cảm thấy cần phải ‘đóng một vai gì’ cho nổi bật trong sân khấu cuộc
đời, để khỏi mất mặt. Họ cố sắm xe, mua hột xoàn, ăn mặc toàn là xa xỉ phẩm, lố
lăng cũng được, để nổi bật, khỏi hụt chân, đóng vai chủ động, tự bố trí cho
mình một vai trong sân khấu cuộc sống trưởng giả.
Không làm vậy thì buồn lắm, là xuống dốc, là mất sự sống.
Cái nghiệp chướng là thế. Nghệ sĩ sân khấu là giới chịu đựng lị thứ tai
tiếng, chịu đựng thay cho thiên hạ và các nghệ sĩ khác – những người đánh đàn,
cầm cọ pha màu hoặc cầm bút như chúng tôi.
Bởi vậy giữa nghệ sĩ sân khấu và nhà văn ký giả có mối tình thất thiết,
xương máu, tự tiền kiếp. Thương nhau không hết, ai đành giận nhau! Rủi có giận
thì chẳng bao giờ người ta giận nhau quá dai.
Sơn-Nam
Nguồn: Bàn về thành kiến “Xướng ca vô loại” của
nhà văn Sơn Nam viết cho “Giai phẩm kỷ niệm 16 năm thành lập của đoàn
Thanh-Minh Thanh-Nga” (Số 16 ngày 13-4-66 và số 17 ngày 3-5-67).
304Đen – llttm- sgtc
No comments:
Post a Comment