NHỚ THƯƠNG LỬA BẾP
CÀ RÀNG
Trong ca từ bài hát Còn Thương Rau Đắng Mọc Sau Hè, ngập tràn hình ảnh quê hương, cố nghệ sĩ Bắc Sơn đã nhắc nhở bóng
hình quen thuộc “Chái bếp hiên sau cũng ngọt ngào một lời cho
nhau”. Cái góc nhỏ ấy đôi khi là nơi hò hẹn, tự tình của những đôi trai
gái. Lời yêu thương ấm áp hơn nhờ ánh lửa bập bùng trong cái bếp Cà Ràng.
Lê
Đại Anh Kiệt
Ráp
2 ông đất thành hình Cà Ràng số 8.
Ấy vậy nên ca dao có câu hóm hỉnh dẫn lời nhắn nhe của ông anh rể tương
lai với đứa em vợ tương lai:
“Bếp
cà ràng cào than nhúm lửa.
Nhắn chị Hai mày hé cửa anh chun”
Có thể anh trai đã mượn cái công dụng tất yếu, quen thuộc cào than nhúm
lửa để dẩn dụ đứa em đồng lõa với mình làm công việc lệch chuẩn là “hé cửa anh
chun”. Nhưng cũng có thể thằng em và cái Cà Ràng cùng là chứng nhân của câu
chuyện hẹn hò giữa hai người được trưng dẫn ra để tăng thêm niềm tin cho đứa
em. Vậy đó, cái Cà Ràng gắn liền với đời sống, sinh hoạt của người dân như một
thành viên không thể thiếu trong gia đình.
Dời
nhà cũng phải mang theo
Ở An Giang, một trong những xứ sở khơi nguồn và sản xuất Cà Ràng, nó còn
đi và thơ ca như hình ảnh, sinh hoạt đặc trưng của đời sống gia đình những
người dân miền sông nước hay khách thương hồ.
“Con
nước lớn cha chống xuồng
Con nước ròng, mẹ nhóm bếp cà ràng đợi gió
Con nước rong chảy tràn mùa nước nổi
Vàng bông điên điển Châu Giang”
Cà Ràng là gì mà quan trọng dzữ dzậy? Với người trẻ lứa 8x, 9x trở đi
không chỉ ở Mỹ mà ngay tại Việt Nam vốn quen bếp ga, bếp điện, bếp từ thì bếp
Cà Ràng là vật lạ. Nhưng với những thế vào một thời không xa, bếp cà ràng là
vật dụng quen thuộc, thiết yếu của mọi gia đình ở Nam Bộ
Bác Tư – Bà mẹ Cà Mau, được con trai là nhà thơ Nguyễn Trọng Tin rước
lên Sài Gòn định cư đã ra điều kiện duy nhất “Sống ở đâu cũng được nhưng phải
có miếng đất trống, có cái bếp Cà Ràng cho má nấu cơm. Nấu cơm bếp điện, bếp
gas gạo nở không đều, không có cơm cháy ăn không được!”
Về hình dáng, học giả Vương Hồng Sển miêu tả: “Cà ràng hình thù như con
số 8 để nằm, một đầu là ba ông Táo lú đầu lên cao để đội nồi ơ siêu trách, còn
một đầu kia nắn cái bụng chang bang dài dài vừa vặn với cây củi chụm, bụng này
chứa được tro nhiều không rơi rớt ra ngoài, lại ấm cúng che kín gió, mau chín
mau sôi”. Nói đơn giản, Cà Ràng chỉ là cái bếp làm bằng đất nung dùng để đun
nấu bằng nguyên liệu củi.
Củi ở miền Nam thì phong phú, từ củi tràm, củi súc, củi đước hàng hóa
chất thành thước khối bán đầy ở các bến sông. Củi tạp từ cây lá vườn nhà thậm
chí là rơm rạ cũng có thể nấu trong bếp Cà Ràng.
Cà Ràng có đáy bằng đất chắc chắn lại gọn nhẹ nên có thể đặt trên nền
đất, trên khuôn bếp, trên nhà sàn gỗ, trên mặt đất sình, trên các xuồng ghe,
thậm chí có người còn phóng đại cho rằng Cà Ràng có thể đặt ngay trên mặt nước.
Bếp Cà Ràng có vách đất bao quanh nên tàn tro không bị vắng rớt ra ngoài
không lo hỏa hoạn,
Do sự phù hợp và tiện dụng nên nó phổ biến khắp vùng Nam bộ từ đất đồng,
đất rẫy, sông nước, bãi bồi đến ngay cả thành thị trước khi bếp gas phát triển
vẫn dùng bếp Cà Ràng phổ biến đến tận thập kỷ 1980.
Tên
Cà Ràng làm ra tên chợ Cái Răng
Thế nhưng Cà Ràng từ đâu mà có, có tự bao giờ? Các dân tộc Miền Núi hay
Đồng Bằng Bắc Bộ và cả Miền Trung, Tây Nguyên thường chỉ đun nấu bếp theo hình
thức ba đầu ông táo rời nhau hoặc một khung sắt hình tròn. Cà Ràng là “đặc sản”
của Nam Kỳ.
Có nhà văn hóa quốc doanh ở Miền Nam giải thích rằng Cà Ràng có từ bên
Xiêm (Thái Lan) thương lái đem bán ở Phnompênh và người Khmer đem về bán tại
chợ Cái Răng (chợ nổi còn có tên là chợ Phụng Hiệp nằm cách Cần Thơ hơn 10km về
hướng Hậu Giang, nay là chợ nổi du lịch hấp dẫn du khách). Dần dần người Khmer
và người Việt ở Miền Tây ăn cắp kiểu làm theo để bán dần dần, chợ Cái Răng trở
thành chợ đầu mối bán Cà Ràng và tên chợ Cái Răng đã chuyển sang tên cái bếp
nói trại ra thành cái Cà Ràng.
Cố học giả Vương Hồng Sển người mang ba dòng máu Việt, Hoa, Khmer lý
giải hoàn toàn ngược lại. Trong di cảo Chuyện cũ ở Sốc Trăng mới được in sau
khi ông qua đời đã ghi nhận rằng “cái cà ràng người miền Tây lâu nay vẫn hiểu
là cái bếp củi, nó vốn mang tên Khmer là châng-kran – là cái lò lửa dời đi
được”.
Trong quyển “Tự vị tiếng Việt miền Nam” học giả Vương dẫn giải: “Truy
nguyên ra, trong sách Pháp, Le Cisbassac chẳng hạn, và nhiều sách khác đã có từ
lâu vẫn ghi: “Krôk kran: rạch Cái Răng, nay cứ lấy điển này làm chắc, một đàng
khác hỏi thăm người cố cựu bản xứ thuật rằng ngày xưa, không biết từ đời nào,
nguyên người Thổ (Cơ Me) ở Xà Tón (Tri Tôn) chuyên làm nồi đất và “karan” chất
đầy mui ghe lớn rồi thả theo sông cái đến đậu ghe nơi chỗ này để bán, năm này
qua năm nọ, chầy ngày người mình phát âm “karan” biến ra “Cái Răng” rồi trở nên
địa danh thiệt thọ của chỗ này luôn”.
Như vậy theo Vương Hồng Sển không phải tên chợ Cái Răng làm ra tên Cà
Ràng mà ngược lại chính cái tên Kran đã làm ra tên chợ. Mặt khác, Cà Ràng cũng
không phải xuất phát từ Xiêm La mà đã có tại vùng Thủy Chân Lạp này từ thời
Vương Quốc Phù Nam hơn 1500 năm trước. Theo kết quả khảo cổ di chỉ Óc Eo ở một
số địa phương như: Gò Tháp (Đồng Tháp), Ba Thê (An Giang) người ta đã tìm được
những mảnh vỡ của cà ràng. Bảo tàng Cần Thơ hiện đang trưng bày tiêu bản Cà
Ràng thời Phù Nam hình dạng tương tự như của người Khmer hiện nay.
Hàng trăm năm qua, giao thoa văn hóa Việt, Khmer hình dạng Cà Ràng có
biến đổi nhất định theo nhu cầu sử dụng. Cà Ràng nguyên thủy của người Khmer
miệng xòe rộng nên có công dụng độc đáo là vừa nấu vừa có thể cời than ra phần
miệng để nướng, ủ nóng đặc biệt vách, đáy làm bằng loại đất núi đặc biệt nên
nhẹ, bền chắc đến mức được phóng đại là có thể đặt nấu trên mặt nước. Nhược
điểm của Cà Ràng là vách thấp quá thoáng nên hao củi và dễ bị gió lùa khi nấu ở
nơi nhiều gió hoặc trên sông nước.
Người Việt đã giữ nguyên cấu trúc nhưng cải sửa hình dạng Cà Ràng với
thành bếp cao, miệng bếp ngắn lại nên kín gió nhưng khi vừa nấu vừa nướng bất
tiện hơn. Những cái bếp người Việt thường tự làm tại gia đình với đất sét trộn
trấu và chỉ phơi khô chứ không nung. Nên bếp Việt chỉ đặt cố định một nơi chứ
không di chuyển được.
Nguyên
liệu đặc biệt là đất núi
Chính những ưu điểm nhẹ, chắc, tiện dụng ấy, hàng trăm năm qua, bếp Cà
Ràng Khmer vẫn có mặt trên khắp chợ quê chợ tỉnh trên khắp Nam Kỳ và vẫn chỉ
những làng Khmer ở vùng Bảy Núi An Giang và Ba Hòn Kiên Giang mới có nguyên
liệu đất núi và những người thợ làm Cà Ràng.
Chúng tôi về làng nghề Bếp Cà Ràng Thị trấn Hòn Đất, Kiên Giang. Ngôi
làng phồn thịnh với hàng trăm hộ theo nghề với hàng trăm nhà xưởng rải rác dọc
bờ con rạch. Hai bên bờ rạch trải đầy những Bếp Cà Ràng mới đắp hoặc đã nung
như bức tranh đầy màu sắc.
Các làng nghề Cà Ràng đã cải tiến, không chỉ giữ hình dáng nguyên thủy
mà còn làm theo hình dáng giống như người Việt hoặc loại bếp cải tiến có cả ống
thoát khói. Đặc biệt họ vẫn giữ nguyên liệu là đất sét và quy trình nung ủ nên
Cà Ràng vẫn nhẹ nhàng, tiện lợi.
Về công nghệ, có hai cách sản xuất Cà Ràng là làm đổ đất ép cả cái Cà
ràng theo khuôn và cách ráp tay từng bộ phận theo dây chuyền. Trước tiên, đất
được nhào và xoay nén thành chậu tròn. Tiếp đó, người thợ cả bào ven chậu đất
thật bằng mịn và loe miệng rộng ra và đưa lên giá phơi ráo. Người thợ ráp kê
hai chậu đất để tiếp giáp với nhau, cắt hai phần chậu giao tiếp nhau, nối kết
hai chậu thành hình khung bếp. Công đoạn cuối cùng là gắn ba núm lên đầu thành
hình Cà Ràng hoàn chỉnh.
Cà Ràng đươc phơi dưới ánh mặt trời từ hai đến ba nắng sau đó đưa vào lò
nung. Cà Ràng được chất thành nhiều lớp đổ trấu phủ lên bếp và un trong khoảng
8 đến 12 tiếng là thành lò thành phẩm.
Ánh
lửa đêm Noël
Những chiếc Cà Ràng mới ra lò được chuyển ra bờ sông và theo ghe hàng đi
tản mác khắp bốn phương về làm bạn với các gia đình theo dòng đời hàng chục
thậm chí hàng trăm năm trừ phi có sự cố va quẹt nào đó chứ hiếm khi nào tự dưng
đổ vỡ.
Có những chiếc Cà Ràng lưu truyền từ đời này qua đời khác là chứng nhân
không chỉ một câu chuyện lứa đôi mà nhiều thế hệ lứa đôi nên thấm đậm nghĩa
tình. Không riêng bà má nhà thơ Nguyễn Trọng Tín mà cả má tôi cũng vậy. Dù tôi
đã sắm đủ bếp gas, nồi cơm điện, lò viba sóng, lò nướng điện nhưng má tôi vẫn
nhất định giữ lại cái chái bếp và mấy cái Cà Ràng.
Thỉnh thoảng bà lại kiếm cớ nào đó rất ư là vô lý như “thèm ăn cơm cháy
từ nồi đất”, “món chân giò này phải hầm than riu riu mới mềm” để tự tay nhóm
lửa Cà Ràng nấu nướng. Những lúc ấy chừng như tôi thấy trong mắt bà lấp láy ánh
sáng reo vui phản chiếu từ bếp lửa Cà Ràng. Mới đây, đêm Noël, đám nhỏ gom về
quê chơi bà lão mua bắp tươi về luộc đãi bầy cháu. Lấy cớ phải nấu bằng nồi to,
bà lại nổi lửa Cà Ràng.
Bất ngờ, đám nhỏ bị hút theo bếp lửa, líu ríu bám chân bà. Ánh lửa hồng
trong đêm hắt lên gương mặt mấy bà cháu thật rạng ngời, ấm áp. Tôi bất giác lấy
máy bấm hình và không ngờ đó là lần cuối cùng bà nhóm lửa bếp Cà Ràng.
Lê
Đại Anh Kiệt
nguồn: Nhớ thương lửa bếp Cà Ràng – Nam Kỳ Lục Tỉnh
(namkyluctinh.org)
304Đen – Llttm - sgtc
No comments:
Post a Comment