DUYÊN ANH, THƯƠNG SINH và
VŨ MỘNG LONG
Viết về người chết thật dễ. Bốc thơm người chết,
thì ai cũng cho rằng đó là công việc đáng làm và nên làm. Sỉ vả một xác chết,
thì cái xác chết ấy cũng chẳng thể lồm cồm bò dậy, để đòi cải chính. Bởi vậy,
từ trước tới nay, thiên hạ thường hay đè người chết ra để mà khai thác rất kỹ.
Nhưng viết về người sống, mới thật khó. Khó hơn nữa, người còn sống đó lại là
bạn, là một văn hữu. Bốc thơm cũng không được, mà bốc thối lại là một điều tối
kỵ. Bốc thơm vung vít, sẽ được vài ba kẻ thối mồm nào đó, phang cho một câu,
rất dễ làm cho phừng phừng bốc lửa: “Mày được ăn cái giải gì, mà bốc
thơm nó kỹ vậy”. Còn nếu bốc thối, viết lách lèm bèm về người bạn ta, thì
sẽ được bạn ta đi một đường trách móc “Tao với mày, sống với nhau từ
lâu, bạn sống có, bạn chết có, mà lại nỡ chơi nhau”. Đằng nào thì cũng kẹt.
Sự kẹt ấy, được mô tả bằng câu thơ của Cung Trầm Tưởng: “Chưa bao giờ kẹt
thế”.Với một cái tâm sự đó, hôm nay tôi viết về Duyên Anh. Nghe Phan Kim Thịnh
nói, thì Duyên Anh tin tưởng ở tôi, ở cái sự tôi hiểu “chàng”, nên dù đã có
nhiều cây viết cỡ lớn, đưa những đường bút nặng ký, cũng nên đòi hỏi một sự có
mặt tôi. Và Duyên Anh cho rằng, tôi mà viết về Duyên Anh, thì những giòng chữ
ấy mới được coi là thật thà.
Thì tôi cố gắng thật thà. Tục ngữ có câu “Thật thà
như đếm”. Tôi cũng dùng cái thật thà như đếm ấy, để bắt đầu bằng những con số
một, hai, ba. Một là Duyên Anh, hai là Thương Sinh và ba là Vũ Mộng Long.
Trong bài viết này, tôi cũng có nhắc tới vài ba văn
hữu. Sự có mặt của các văn hữu, chỉ với tư cách chứng nhân. Còn nhân vật chính,
vẫn là Duyên Anh. Và nói một cách khác, thì bài này, chính là bản truyện phim
mà Duyên Anh là tác giả thủ vai chính.
Sự quen biết của tôi và Duyên Anh, mới chưa được
một chục năm. Ấy mà tôi nhớ bàng bạc như vậy. Trí nhớ của tôi hồi này mòn lắm.
Bởi thế, tôi chỉ viết được những điều gì mà tôi nhớ. Còn nững gì đã xảy ra mà
các bạn tôi, các văn hữu của tôi, không thấy tôi viết tới, là vì tôi quên mất
rồi, quên sạch hết cả rồi…
Một cô sinh viên của Đại Học Báo Chí Vạn Hạnh, hôm
qua, có tới phỏng vấn tôi về những điều kiện để gia nhập làng văn làng báo. Cần
phải có cái may mắn?… Có người nâng đỡ?… Có thực tài?… Tôi trả lời rằng cần
phải có thực tài. Cái may mắn hay có người giới thiệu nâng đỡ, chỉ là một điều
phụ, có cũng được mà không có cũng được. Có điều là nếu gặp may, có được người
tốt nâng đỡ, thì thời gian được rút ngắn bớt. Nếu có tài, có thực tài, thì dù
cho “ai đó” có muốn dìm mình xuống, nắm đầu mình đè xuống, thì cũng có phen
ngóc được cái đầu lên, mà làm những phát gật gù hãnh diện.
Theo tôi, thì Duyên Anh đi vào làng văn, làng báo,
đã nắm được cả ba yếu tố. Có cả ba thứ may mắn, được người nâng đỡ, và có thực
tài. Như một bậc đế vương, nắm được cả ba thứ thiên thời, địa lợi, nhân hòa, để
vững ngôi cao. Cái may mắn như cái thiên thời. Được người nâng đỡ là vớ được
địa lợi. Và cái thực tài, chính là cái nhân hòa đó vậy.
Nếu tôi nhớ không lầm, thì sự có mặt đầu tiên của
Duyên Anh với làng văn là truyện ngắn Hoa Thiên Lý, đăng trên Nguyệt san Chỉ
Đạo. Tôi cũng là một biên tập viên của Chỉ Đạo với các anh Ngô Quân và Nguyễn
Mạnh Côn. Anh Nguyễn Mạnh Côn , hồi đó, xuất hiện như một ngôi sao Bắc Đẩu.
Lừng lững và sáng chói. Ngắm một ngôi sao thì thấy rằng gần đấy mà cũng xa đấy.
Gần thì như Nguyễn Mạnh Côn. Xa thì như Đằng Văn Hầu. Mà xa hơn nữa, thì là
Nguyễn Kiên Trung. Nhưng chỉ biết rằng, truyện ngắn Hoa Thiên Lý gửi về Nguyệt
San Chỉ Đạo, đã làm cho anh Nguyễn Mạnh Côn ngạc nhiên đến thích thú, vì lối
viết của Hoa Thiên Lý thật nhẹ nhàng và dễ dãi, khác hẳn với lối viết nặng và
nhức đầu của Nguyễn Mạnh Côn. Những người viết văn, yêu nhau và thích nhau ở sự
trái ngược. Chỉ yêu, chỉ thích những cái gì mà mình không làm nổi. Nguyễn Mạnh
Côn không thể viết được như Duyên Anh, và trái lại… Bởi thế, từ đó, ông Đằng
Vân Hầu đã dành cảm tình đặc biệt với Duyên Anh.
Nói như vậy, không phải rằng nhờ Nguyễn Mạnh Côn mà
Duyên Anh đạt được tới địa vị như bây giờ. Có một “cái chiếu” như bây giờ,
Duyên Anh đã phải xông pha, dùng cả cái thực tài văn chương, thêm một chút khôn
ngoan để tả xung hữu đột. Nói về cái khôn, thì Duyên Anh khôn lắm. Nguyễn Đình
Toàn đã phê bình rằng “Thằng đó nó khôn quá, nên cứ quắt người lại”. Cùng một
lúc xuất hiện trên Chỉ Đạo, và cũng được Nguyễn Mạnh Côn chú ý và nâng đỡ ngang
với Duyên Anh, thì có Dương Kiên. Nhưng tới nay, so sánh về viết văn và làm
báo, thì Duyên Anh được biết đến hơn Dương Kiên nhiều. Nói vậy, không phải là
tôi đã làm một phát bốc thơm Duyên Anh và bốc thối Dương Kiên. Tôi chỉ làm một
chuyện so sánh. Thế thôi!…
Điều mà tôi ưng ý nhất ở Duyên Anh, là Duyên Anh
không dấu diếm cái dĩ vãng đói khổ của mình. Mà đâu có gì phải che đậy. Duyên
Anh hãnh diện khoe với mọi người rằng mình là dân Thái Bình, con một Đông Y sĩ,
tục gọi là ông lang. Những chuyện đó, bắt gặp nhan nhản trong những truyện mà
Duyên Anh viết về tuổi thơ. “Con sáo của em tôi” đã được lựa chọn để in vào
sách giáo khoa cho học trò học, và trong chuyện đó, Duyên Anh dã tả gia đình
của mình như một gia đình rách vào bậc đáng nể của miền Bắc. Các văn nhân, thi
sĩ, thường mắc bệnh “nói phét trong tiểu sử”, nhưng những người mắc bệnh ấy,
rất may là không có Duyên Anh.
Những lúc về sau này, Duyên Anh thường hay biểu
diễn những màn trưởng giả. Nhưng khi người ta có tiền, có xế, có biệt thự, thì
kể tới làm gì… Chỉ cốt là đừng quên dĩ vãng. Như thế cũng đủ rồi…
Có kẻ cho rằng cái chất trưởng giả mà Duyên Anh có
hiện nay là lây của vợ, một cô chiêu, vừa nứt trứng ra đã thấy mình nằm trên
giường nệm. Tôi không tin như vậy… Con người, phải thích ứng với hoàn cảnh. Lúc
nghèo, sống với cảnh nghèo. Còn bây giờ giàu có, ai cấm được Duyên Anh sống với
lối sống của nhà giàu?… Một chiếc dương cầm, không thể kê được trong căn nhà
lá, cũng như mặc một bộ quần áo rách, không thể dự tiếp tân tại nhà hàng
Caravelle. Cũng có thể được đấy, nếu muốn được coi là kẻ “đờ-mi-pha,
đờ-mi-tốc”. Nhưng Duyên Anh thì chẳng “pha” mà cũng chẳng “tốc” bao giờ… Xin
đọc lại câu phê bình về Duyên Anh của Nguyễn Đình Toàn.
Thời kỳ được coi là thân nhất của tôi và Duyên Anh
là thời kỳ mà nhật báo Sống còn sống, tòa soạn đặt tại đường Gia Long. Trước
cửa nhật báo Sống có một quán cóc. Nơi đó là chỗ chúng tôi tụ họp mỗi buổi
trưa, khi tờ báo vừa “khóa tin”. Góp mặt, còn có Hoàng Anh Tuấn và Hoàng Hải
Thủy. Khi bàn nhau thành lập một “Hội những thằng viết văn lấy tên thật”, đã bị
Duyên Anh chửi bới rất tận tình. “Chúng mày được bố mẹ đặt cho những tên đẹp,
thì chúng mày lấy tên thật được. Còn những thằng chẳng may bắt phải một cái tên
xấu, thì mang cái tên xấu ấy đi trên hàng đầu văn chương hay sao?”. Rồi Duyên
Anh la lên ào ào. Thằng Thanh Nam, tên nó là Trần Đại Việt, ký cái tên ấy mà
viết tiểu thuyết thì… còn mẹ gì là văn chương. Không khí buổi trưa trước cửa
nhật báo Sống, nơi quán cóc vỉa hè ngày đó, được tả là rất vui, rất hấp dẫn, để
rồi phải nhớ nhung tới nó như một cơn ghiền. Buổi trưa, mà không ghé qua ngồi
đó, thì coi như ngày hôm đó vứt đi. Ngày đó, chúng tôi chưa uống rượu mạnh như
bây giờ, chỉ uống bia 33. Ngày nào, những chồng vỏ chai bia 33, cũng được xếp
cao ngất.
Các em trai, em gái búp bê của Duyên Anh cũng thích
tới đó để chiêm ngưỡng cách bậc đàn anh văn nghệ, uống bia say sưa rồi ra gốc
cây, đái tồ tồ. Các ông anh già cũng thích tới đó lắm, nhưng thường là chỉ ghé
được một, hai lần. Không thể chịu nổi với những lời mỉa mai cay độc của lũ
chúng tôi. Không hiểu sao hồi đó, chúng tôi, coi thường mấy anh văn nghệ già
đến thế…
Thỉnh thoảng, Chu Tử cũng khập khiễng, run rẩy bước
qua đường, ngồi vào ghế, góp vài câu chuyện rồi hai ngón tay vân vê vào nhau,
xin một điếu thuốc lá lẻ. Anh vừa bị phơ mấy phát vỡ miệng, nên nói năng còn
ngọng nghịu. Cùng một lúc, cũng có tin ông Thượng Tọa Thiện Minh bị gài lựu đạn
vào xe hơi, lựu đạn nổ trúng bàn tọa, phải vào nằm nhà thương đỡ đẻ của ông Bác
sĩ Nguyễn Duy Tài. Tuy rằng nói còn ngọng mà Chu Tử cũng xuất khẩu được ra một
câu đối: “Thượng tọa ê bàn tọa. Chu Bình sứt miệng bình”.
Ngoài việc viết lách cho Nhật báo Sống, giữ trang
Búp Bê, Duyên Anh còn viết một “phơi-ơ-tông” cho báo Xây Dựng của cha Thiên Hổ.
Tôi nhớ hình như tiểu thuyết đó là Châu Kool, về sau khi in ra đổi tên là Trần
Thị Diễm Châu và đã được anh Lê Dân quay thành phim. Đó là một tiểu thuyết viết
về một thứ “nữ kê tác quái”…
Văn chương của Duyên Anh có nhiều sự trái ngược.
Duyên Anh viết tiểu thuyết du đãng cùng một lúc với tiểu thuyết nhi đồng. Coi
trang búp bê, cùng một lúc với khi viết những mục phóng sự và phim nham nhở.
Trong đầu Duyên Anh, hình như có chứa đựng rất nhiều ô kéo. Khi cần tới một thứ
gì, Duyên Anh chỉ cần mở cái ô kéo đó ra, là có đầy đủ tài liệu. Cố nhiên tài
liệu đó không thể lầm lẫn, vì nếu lầm phóng sự nham nhở với truyện tuổi ô mai,
thì có quyền… vỡ mặt. Có lẽ cũng vì cái sự “kiêm nhiệm” hơi nhiều ấy, mà một
cuốn tiểu thuyết trẻ thơ của Duyên Anh mang tên Bồn Lừa, cứ hay bị thiên hạ
hiểu lầm, một sự hiểu lầm tai hại bạc triệu…
Thương Sinh, là
một bút hiệu của Duyên Anh, ký tên những phóng sự nham nhở và
những mục viết lách chửi bới. Ngoài tên Thương Sinh, còn có những tên Nã
Cẩu, Vạn Tóc Mai, Thập Nguyên, v.v… Nhiều quá, nhớ không hết… Những bút
hiệu đó, nếu mang ra mà giảng nghĩa, thì rất ư là một sự đau khổ… Các búp bê
của Duyên Anh mà hiểu được, chắc là khóc thét lên. Như Thập Nguyên chẳng hạn…
Thập Nguyên có nghĩa là mười đồng. Mà mười đồng, dịch sang tiếng Tây là
“đít-biệt”, dịch theo kiểu Tây bồi. Mà nói lái thì tục quá… Đó là nghĩa của bút
hiệu Thập Nguyên.
Tên Thương Sinh lẫy lừng nhất, bắt đầu từ ngày mà
Thương Sinh và tôi đẻ ra tờ tuần báo Con Ong. Trước đó thì Thương Sinh cũng đã
làm mưa, làm gió trên Nhật Báo Sống bằng những phóng sự. Những tay viết phóng
sự nặng ký lúc bấy giờ là Phan Nghị, Hoàng Hải Thủy và… Thương Sinh. Nhưng Phan
Nghị, thì bắt đầu đi làm phóng sự… chiến trường, bốc thơm mấy anh tài xế tàu
bay để bắt tí địa của ông Tướng Riu, Hoàng Hải Thủy thì tuyên bố giải nghệ. Chỉ
còn một Thương Sinh múa những đường gậy hoa mỹ trong vườn hoang. Về sau này,
cũng có xuất hiện vài tay phóng sự cò con, nhưng phần nhiều là xài lại những
danh từ mà Phan Nghị, Hoàng Hải Thủy và Thương Sinh đã sáng chế ra… Tới lúc đó
thì Thương Sinh cũng giải nghệ viết phóng sự; ngả hẳn về mục nham nhở, chửi bới
rất hăng và rất tận tình…
Tòa soạn tuần báo Con Ong, lúc đó, gần như chỉ có
ba người, bao thầu đủ các mục. Thương Sinh, tôi và Lữ Hồ, một anh nhà giáo rất
nghiêm túc, biết rất nhiều bí mật sau hàng rao kẽm gai của Dinh… Về sau này,
thêm thằng Hĩm về, vẽ vời tăng cường. Công việc viết lách chửi bới lúc đó được
coi là rất có tính cách nhà nghề.
Thương Sinh viết rất khỏe, và có một lối viết khá
lạ mắt. Tụt giầy ra, đưa cả hai chân lên ghế, ngồi với tư thế như ngồi trong
cầu tiêu. Thương Sinh gọi đó là công việc bài tiết ra văn chương. Những tên mà
Thương Sinh đặt cho các ông Dân Biểu, chính khách, các đấng Thượng Tọa, Linh
Mục thì khỏi chê. Những cái tên ấy bám chặt lấy người, không làm cách nào tẩy
sạch. Ông Dân Biểu Tượng Chàm, Cao Nhất Nước, Ông Già xe Đò, Ông Ngoại Ngớ
Ngẩn, Chính Khách Yếm Thắm v.v… đều do Thương Sinh đặt tên. Những người đó đều
được Thương Sinh lố bịch hóa thành hững bức tranh thời sự trào phúng, hoạt kê.
Nhờ đó mà những người đó bớt đi được chất nghiêm trọng và thiên hạ không còn
nhìn những người đó bằng con mắt suy tôn…
Không hiểu tôi đã đọc được ở đâu một mẩu đối thoại.
Hai nhà văn, đã hỏi nhau một câu “Viết lách như anh mà chưa có thằng nào vác
gậy tới nhà hay sao?” Thương Sinh thì đã có kẻ vác gậy tới nhà rồi. Hai người
lính được một kẻ thuê mướn, đã đến nhà Thương Sinh đè nhẹ anh vài cú đấm. Đòn
cũng chẳng đau lắm, và Thương Sinh rất hãnh diện về chuyện này. Nhất là trước
khi âu yếm, hai anh lính này nói năng rất lễ phép, nói rõ mục đích của mình,
tên của thân chủ, và thú nhận là rất ân hận khi làm công việc này. Một anh
lính, còn đi một đường dặn dò “Xin anh ngày mai, dán ở trên mặt vài cái băng
keo, để cho tụi em còn… lãnh tiền”. Thế là vui vẻ cả làng…
Thương Sinh có một cái tật là phũ miệng… Không bằng
lòng ai, anh hay nặng lời, dù là bạn bè thân thiết cũng vậy. Theo như Hoàng Hải
Thủy thì đó là sự dồn nén ở gia đình nên phải xì ra với bạn bè. Ở nhà nó, nó
không dám quát vợ, mắng con. Đến con chó nhà nó, nó còn không dám biểu diễn một
cú đá. Bởi vậy, nên nó mới “quặc” ra với tụi mình. Tuy biết thế, nhưng Hoàng
Hải Thủy vẫn giận Thương Sinh nhiều lần. Gã Thâm ưa đưa bài chậm, khi thấy đưa
chậm bài, Thương Sinh ngồi xổm lên ghế, viết trám ngay, rồi khi Gã Thâm đưa bài
tới, là nhận ngay được một lời cảm ơn. Nhưng chỉ giận dỗi qua loa, rồi thì vẫn
thân nhau, yêu nhau như thường. Trẻ con nhất là những đứa viết văn.
Cái số của Thương Sinh là đi làm công. Không thể
nào làm được chủ. Thấy tờ tuần báo Con Ong với một tay mình gánh vác, đã thành
công, tuy chỉ thành công trong sự chửi bới thiên hạ, Thương Sinh ức lòng lắm.
Hắn bèn tuyên bố rằng từ nay không thèm … rời ra, để mần riêng một tờ tuần báo
trào phúng đối lập, khuôn khổ cũng như tuần báo Con Ong, mang tên là tuần báo
Người…
Từ khi có tuần báo Người, Thương Sinh bắt đầu đánh
bóng cái tên Vũ Mộng Long. Những bài viết về thanh niên, về tuổi trẻ, như loạt
bài “Những con bò sữa trên đồng cỏ cháy”, ký tên Duyên Anh Vũ Mộng Long… Thương
Sinh có ý định là để cho cái tên có năm chữ ấy, quen thuộc với độc giả, rồi cho
rụng đi hai chữ đầu, chỉ còn lại ba chữ Vũ Mộng Long. Nhưng ý định đó bất
thành, vì tuần báo Người chết sớm.
Tuần báo Người, được coi là một tác phẩm tổng hợp
của Duyên Anh, Thương Sinh, Vũ Mộng Long… Truyện dài “Đốm lửa trong tù”, ký tên
Duyên Anh. Phóng sự viết về nhà chùa, có một bài thơ nổi danh “Sao anh không về
làm sư thành phố”, ký tên Thương Sinh. Còn những bài tham luận về tuổi trẻ, về
thanh niên ký tên Duyên Anh Vũ Mộng Long. Một tay bao thầu hết, đủ các mục. Chỉ
có những mục hí họa mới cần tới tay Tuýt và Hĩm. Tôi có cảm tưởng rằng, nếu
Duyên Anh mà vẽ được, thì chắc hai thằng thợ vẽ ấy cũng được mời đi chỗ khác
chơi.
Kể về sự nghiệp làm văn, làm báo thì Duyên Anh đã
thành công. Tác phẩm của Duyên Anh như thế cũng là quá đủ. Sự hấp dẫn của tiểu
thuyết Duyên Anh, tuy rằng chỉ thu gọn trong giới học trò, nhưng theo tôi, mỗi
người chỉ nên lựa chọn một số độc giả. Về chuyện làm báo, cái tên Thương Sinh,
cũng đã gây nhiều sóng gió giang hồ. Tới bây giờ, vẫn còn được coi chưa có ai
thay thế nổi. Còn về cái tên Vũ Mộng Long, với tiểu thuyết mới nhất “Ngựa chứng
trong sân trường”, tuy chưa đạt tới một mức giáo dục mẫu mực vì còn nặng chất
“người hùng”, nhưng nếu cứ tà tà mà đi, cũng có thể đi tới nơi, về tới chốn.
Khoảng cuối năm vừa qua, Thương Sinh tuyên bố khai
tử cái tên đó, và bỏ nghề làm báo, viết văn nham nhở… Trong một lá thư gửi tới
tôi, có một đoạn Thương Sinh viết:
Một tay thiện xạ, bắn một trăm phát trúng cả trăm,
thì cũng nên ngừng ở phát một trăm lẻ một. Nếu có bắn trúng, thì cũng chẳng
thêm được chút danh vọng nào. Còn nếu bắn trật, thì danh tiếng của cả một đời
cũng theo mũi tên đó mà bay đi mất… Đạo hữu hãy nên bắt chước tôi, chúng mình
rửa tay, gác bút đi là vừa… Đạo hữu nghĩ sao?…
Tôi chẳng biết nghĩ sao… Và đành dùng câu đó để kết
luận cho bài này…
Tháng
5-72
Dương Hùng Cường
* Trích: Nhà
văn Dương Hùng Cường, một nhân cách hiếm, quý của Du Tử Lê:
“….Nếu
không kể những văn nghệ sĩ được CSVN cho về nhà vài ngày để chờ chết thì, Dương
Hùng Cường là một trong những nhà văn bị chết trong tù. Cái chết của ông, cho
đến nay, vẫn không ai được biết rõ nguyên nhân.
Dương
Hùng Cường là một nhà văn miền Nam Việt Nam, nổi tiếng, dù viết không nhiều.
Cho đến ngày qua đời, ông chỉ cho xuất bản trước sau ba tác phẩm. Đó là các
cuốn “Buồn Vui Phi Trường,” “Lính Thành Phố” ký sự
và “Vĩnh Biệt Phượng” tiểu thuyết. Mặt khác, Dương Hùng Cường
cũng nổi tiếng với bút hiệu Dê Húc Càn, trên tuần báo trào phúng Con Ong của
nhà báo Minh Vồ.
Bút
hiệu Dê Húc Càn của nhà văn Dương Hùng Cường được ký dưới những bài viết châm
biếm tệ trạng xã hội, tố cáo những bê bối của các nhân vật tai to mặt lớn ở
miền Nam…
Theo
tác giả Ngộ Không trong loạt bài sưu tầm những bài viết về nhà văn này thì, nhà
văn Dương Hùng Cường sinh ngày 1 Tháng Mười, 1934, tại Hà Nội. Ông mất ngày 21
Tháng Mười Một, 1987, tại nhà tù Phan Đăng Lưu, Gia Định.”
**
Ngoài 3 tác phẩm Buồn Vui Phi Trường (Tự truyện, 1969) ,
Lính Thành Phố (Truyện
dài, 1966) và Vĩnh Biệt Phượng (Truyện dài, 1972),
theo vietmessenger.com, Dương Hùng Cường còn có Mười Năm Ngồi Trên
Cao (Tập
thơ truyện không quân thời chiến, 1974)
No comments:
Post a Comment