Em Đi Nơi Này Nhớ
Wednesday, July 30, 2025
Ngâm Cười - Nguyễn Công Hoan
NGẬM CƯỜI
làng tôi bây giờ sở dĩ được yên ổn, là nhờ
lòng can đảm, nghĩa hiệp của anh cu bản, đã liều mình khám phá ra cái tổ trộm
cướp ở cánh rừng thông.
sáu tháng về trước, luôn một dạo, những lúc
đêm khuya, tĩnh mịch, không có trăng, ít người dám đưa mắt ra ngoài sân tối mịt.
nghe ngọn gió rít qua khe liếp cũng đủ trợn! hễ có tiếng chó rồ lên sủa khan ở
xóm bờ sông, là ngay từ đứa bé lên hai cũng biết giật mình. nó khóc thét lên,
ôm chầm lấy mẹ... mẹ nó vỗ, xoa, ru khe khẽ để lắng tai nghe. rồi nếu một hồi
tù và dậy lên, thì ông già vặn to ngọn đèn hoa kỳ, ngồi nhổm dậy, húng hắng ho,
hoặc hút thuốc lào, cho đỡ vẻ lặng lẽ.
nhưng bỗng vẳng nghe ở đâu kêu cướp, rồi trống
đánh liên thanh, tiếng khóc như ri, tù và rúc, chó sủa lạc tiếng, liền liền
nhau từ làng này đến làng khác, dài hàng mấy cây số, thì người cứng bóng vía đến
đâu cũng phải lạnh run lên, đánh thức cả nhau dậy, ngồi đến suốt sáng.
mười tối thì đến bốn năm tối kinh khủng như thế.
mà bọn cướp rất tài, ban ngày chúng khéo lẩn lút trong cánh rừng thông, các nhà
chuyên trách mấy lần cho lính vào sục cũng không bắt được.
+
lúc ấy, vào khoảng bốn giờ chiều. chị cu bản
đương ngồi nhặt rau trong bếp, thì chồng về. nét mặt hăm hở, anh nói:
- này u nó, quan đã cắt tôi rồi.
chị ngơ ngác:
- cắt gì?
- cắt đi bắt tổ cướp rừng thông?
xám ngắt mặt, chị gắt:
- quan bắt thầy nó vào chỗ chết mà cũng nghe
à?
anh cu vênh mặt, kiêu căng, đáp:
- chỉ nói dại! việc gì mà chết. chính tôi tình
nguyện với quan để xin đi!
chị cu oà lên khóc:
- thầy nó nỡ bỏ mẹ con tôi chết đói hay sao?
khổ quá! tôi biết trông cậy vào ai được? thầy nó đừng đi!
ba đứa bé, ngơ ngác nhìn cha mẹ, cũng oà lên
khóc.
anh cu cảm động, an ủi vợ:
- u nó cứ yên lòng. thế nào sáng mai tôi cũng
về. nếu tôi không ra tay, rồi quân cướp cứ nhũng nhiễu mãi, vùng này còn ai làm
ăn gì được!
- Đành vậy, nhưng lỡ ra...
- thì cũng đành chứ sao? tôi làm việc ích cho
mọi người mà u nó cũng cứ ngăn cản.
- làm ích cho nhà giàu, chứ những hạng như
mình thì lo gì bị cướp? tôi chỉ sợ lỡ ra, thì một nách ba con mọn, tôi biết làm
thế nào?
- u mày đừng dở hơi! việc gì mà lo xa như thế?
tôi sẽ được thưởng. quan hứa rồi. nếu thành công, ta không phải vất vả như thế
này nữa.
- thôi, tôi van thầy nó đừng dại dột. tôi
không để cho thầy nó đi đâu.
anh cu quắc mắt, nói:
- việc quan nào phải việc trẻ con! u nó không
được nói thế.
chị cu lại oà lên khóc, túm chặt lấy áo chồng.
anh cu giằng ra, mắng:
- u nó không được giữ. quan và lính chờ tôi
ngoài đình kia. Để tôi đi, kẻo chậm.
- không! không đi! thầy nó hãy ăn cơm đã, vội
gì.
- không cần. Đã có cơm của quan. tôi phải đi
ngay bây giờ mới kịp.
nói đoạn anh cu nhất định dứt áo ra đi. anh ôm
ba con vào lòng, xoa đầu, dặn dò mấy câu, rồi ra cổng. chị cu bế con, khóc lóc
theo chồng. nhưng vẫn thản nhiên, anh cu coi nhẹ nghĩa vợ chồng, tình cha con.
Đến đầu làng, anh rỉ tai nói với khán thủ kéo chị cu trở lại.
+
sự thành công của anh cu bản đã làm cho vợ anh
goá chồng! Đêm hôm đó, nhờ anh can đảm, quân cướp lũ lượt bị giải lên huyện.
nhưng anh cu bản bị bỏ mạng. thương thay! từ bấy giờ, trên đầu chị một tấm khăn
tang, kẽ nách chị ba mụn con mọn. Đoạn trường lắm lúc nghĩ mà buồn tênh...cả
làng ai cũng ái ngại cho chị cu bản và ngậm ngùi thương hại con người trọng
nghĩa mà khinh thân.
bọn nhà giàu được ăn no ngủ yên. họ mổ gà mổ
chó ăn mừng. họ khen quan huyện tốt với dân, biết hy sinh một người để cứu nhiều
người. họ xui chị cu bản bế cả ba đứa con lên kêu quan phụ mẫu thương đến tình
cảnh nheo nhóc của chị mà cho một món tiền bồi thường.
quan huyện rất tử tế. ngài nói:
- nhà chị không phải kêu, bổn phận ta là phải
bẩm lên quan trên xét đến người có công. cứ về mà chờ đợi ít lâu. rồi chị sẽ
không phải phàn nàn về sự ân thưởng đích đáng của chồng chị.
+
Ôm tấm mong mỏi, chị cu bản vui vẻ về nhà, kể
chuyện cho mọi người nghe. ai cũng có bụng mừng thay cho chị.
thường khi làm ăn vất vả, được bữa nay, lo bữa
mai, chị lại nhớ thương chồng. nhưng chị lấy ngay cái hy vọng ra để tự an ủi. nếu
được thưởng, chị dùng món tiền để sinh lợi, thì chắc được đủ ăn suốt đời.
năm hôm, mười hôm. cái trò mong vẫn hay thấy
lâu. chứ chị biết đâu lá đơn của chị còn phải qua tòa này sở nọ, có khi nó đi
chậm và hay nghỉ như ông cụ già.
rồi nửa tháng, lại một tháng. chị cu bản càng
ngày càng quẫn bách. cơm chẳng đủ nuôi con. nhà dột, không ai giọi hộ. sân rêu,
cỏ mọc, chị chẳng có lúc nào sửa sang. mấy đứa bé bêu rếch. nhưng biết làm thế
nào? nếu chị ở nhà trông nom chúng, thì ai đi làm lụng kiếm miếng cho mà ăn?
giá chúng lớn, độ lên bảy lên tám cả, thì chị đã cho một đứa đi ở, để đỡ phải
nuôi. khốn nhưng thằng lớn mới lên năm tuổi.
rồi nữa, một tháng, hai tháng. người ta thấy
chị cu bản rách rưới. không ai không phàn nàn cho chị. mặt mũi chị hốc hác, đen
đủi, xấu xa. người ta hỏi thăm, chị đều trả lời:
- nay mai, tôi sẽ có món tiền thưởng.
thưởng. cái đó không thể không có. chắc lắm rồi.
quan đã hứa thế. nhưng hôm nay chị chưa có gì cả. chị nóng ruột. khổ. nhưng, nhất
định chị chờ cái tương lai.
ở ngoài, họ đồn chán lên đấy. có người mong chị
được thưởng một nghìn bạc. có người đoán chị được lương ăn suốt đời. có người ở
xa, lại nói dựng đứng ngay rằng đã gặp chị lên tỉnh lĩnh hai nghìn ở kho bạc.
nhưng sự thực chửa có thế. sự thực thì chị cu
bản vẫn tự an ủi bằng cái hy vọng những khi đầu tắt mặt tối, và khóc thầm những
lúc nhà vắng đêm khuya. chị nhớ lại hôm chồng hăm hở đưa quan lính vào chỗ tổ
cướp. chị nhớ lại lúc trông thấy xác chồng nằm co ro trên vũng máu để tự nhiên
chị thành góa bụa, với ba mụn cơn thơ. chị đau đớn. nhưng chợt chị nghĩ đến lời
quan huyện hứa, quả quyết sẽ được bồi thường về công của chồng chị. trời ơi,
bao giờ nhỉ? bao giờ cái đói, cái rách, cái khốn quẫn nó tha cho chị mà đừng dọa
nạt chị nhỉ? bỗng chị nhìn lên vách. thấy bóng chiếc khăn ngang, chị cảm động,
thút thít khóc.
+
một hôm, chị cu bản hăm hở chạy sang nhà tôi.
tôi không thấy tay chị cầm chiếc rá. mặt chị cũng không nhăn nhó như mọi khi.
chị giơ tờ giấy có dấu son đỏ loè, nhờ tôi xem hộ, và hỏi:
- Ông lý đưa tôi tờ sức, nói rằng quan bảo tôi
đi lĩnh thưởng phải không?
tôi mừng thầm cho chị. chị lại hỏi:
- có phải không? bao nhiêu, hở cậu?
xem xong, tôi nhìn chị, rồi khẽ đáp:
- phải, thưởng, anh ấy được truy tặng cửu phẩm
bá hộ, chị ạ.
- chứ không phải tiền à?
- không!
bỗng chị cu bản xám mặt lại. chị run bắn lên,
rồi mếu máo khóc. chị giật lấy tờ giấy, chạy ù ra cổng, quên đứt rằng đáng lẽ
chị phải vui vẻ cho chồng chị ở chín suối được ngậm cười.
Nguyễn Công Hoan
tiểu thuyết thứ bảy số 188; 1938.
Tôi Đếm Mùa Xuân trên Ngón Tay - Văn Quang
TÔI ÐẾM MÙA XUÂN
TRÊN NGÓN TAY
Một thuở nào xưa
em đến tôi
Rưng rưng hoa đỏ nắng lưng trời
Áo xanh dìu dịu chiều âu yếm
Chúm chím vành môi chẳng dám cười
Ðể lặng nhìn nhau những phút giây
Bướm xuân xao xác gió xuân đầy
Vườn bên ngan ngát mai vàng nở
Thơ thẩn đầu nhà mây trắng bay
Thuở ấy đời như giấc mộng lành
Mắt trong in dáng cả trời xanh
Heo may mùa ấy chừng không lạnh
Lá biết tìm hoa kể chuyện tình
Tôi ở đầu thôn em cuối thôn
Xa nhau một giải lúa xanh rờn
Ðường làng cát trải như giây lụa
Vào hội mùa xuân nhịp trống dồn
Không hẹn nhưng mà thương mến nhau
“Hai nhà” luôn nhắc chuyện trầu cau
Mấy người trong xóm thường hay hỏi
“Chắc hẳn sang năm sẽ có trầu…?”
Ðợi mãi trầu cau chẳng thấy đâu
Mươi mùa binh lửa chín thương đau
Ta đi sương gió từ xuân ấy
Xuân lại về cho thương nhớ nhau
“Vọng mỹ nhân hề thiên nhất phương”
Bài ca dằng dặc mối sầu trường
Chinh y giờ đã phai màu áo
Cách biệt ngàn xa kín khói sương
Rồi cứ mùa xuân mây trắng bay
Hoa mai vàng nở mộng thơ ngây
Ngày xưa trở lại như bào ảnh
Tôi đếm mùa xuân trên ngón tay
Ðếm mãi mùa xuân vẫn chẳng già
Ðộc hành ngâm khúc “hậu đình hoa”
Ðêm xuân gối súng tìm tri kỷ
Có khói hương thừa bay thoảng qua…
Văn Quang
(Quảng Ngãi, cuối Ðông 1957)
Mai Châu - Tô Hoài
Mai Châu
Mai Châu, một vùng du lịch của tỉnh Hoà Bình. Ở
huyện Mai Châu sinh sống các dân tộc Mường, Thái, Kinh, Dao, Mông. Đông nhất là
Thái và Mường, chỉ có hai xã Mông Ơ, Mộc Hạ di cư xuống đã lâu đời.
Trên bốn mươi năm trước, lần đầu tôi đưa các bạn
nhà văn Ấn Độ thăm các làng Thái, làng Dao ở Mai Châu. Rồi các nhà văn Nga,
Pháp, Trung Quốc...
Hôm nay mới có dịp trở lại. Huyện đã có quy định
ba thôn được đón và tiếp khách du lịch. Khách trong nước và nước ngoài đến Mai
Châu, tha hồ đi khắp nơi nhưng khi ở lại hay nghỉ ngơi thì trở về ba thôn: các
làng Bản Lác, Bản Văn và Phong Chóng.
Vào trong xóm, những tấm thổ cẩm màu lam màu
điều dịu mắt vắt từng lớp trên dây, căng trên bờ rào, quanh gốc cây. Có thể mua
làm quà lưu niệm - những chiếc mũ lưỡi trai hoa văn đương là cái đội thời thượng
của thành phố. Hay là ta hãy vào dưới sàn xem những cô gái dệt thổ cẩm, cánh
tay trần dịu dàng đưa thoi, so le mảnh áo ngắn ngang lưng, rồi hãy ra chọn
hàng.
Vào trong thôn, khách có thể ở bất cứ nhà nào,
nhưng có đủ tiện nghi thì mỗi thôn chỉ có một hai nhà. Những nhà này là những
ngôi nhà sàn lớn, có nhà vệ sinh, vòi nước tắm và điện thoại. Trên sàn, góc ngủ
xếp đệm hoa và chăn gối mời khách qua đêm như phong tục cũ ở những nhà khá giả.
Sàn nhà rộng thênh thang ta ngồi chè chén rồi cùng nhau xoè múa và thi hút rượu
cần. Tôi vào Bản Lác đến nhà cụ Hà Công Nhấm - nhà cụ Nhấm bây giờ cũng là ngôi
nhà to, cột gỗ nghiến sáu cạnh. Năm xưa, tôi đã có dịp đưa khách đến nhà cụ.
Khi đó, nhà chỉ có ba gian, lợp tranh, nhưng cũng thật nền nếp. Giữa nhà, trên
bếp đặt cái ninh sôi đêm ngày không bao giờ tắt lửa. Khách nằm chơi ở gian
ngoài, gối đầu lên thành cửa sổ trông ra chân cột sàn và ao cá nước chảy trước
mặt. Trên mặt nước, những khóm lúa nếp cao cao. Mời cơm khách, ông chủ chỉ việc
đem cái vợt ra chao xuống là được con trắm, con chuối, nhanh hơn bắt thịt con
gà. Đã thành tục ngữ Mường, lâu đời câu “cơm trên, cá dưới" trên cây lúa
dưới con cá miêu tả cái phong lưu cơm sôi và cá nướng của người phong lưu thích
vui là như vậy. Cụ Nhấm đã yếu, lại đau dạ dầy phải ăn kiêng và bỏ rượu rồi. Cụ
Nhấm vẫn nấu rượu, nhưng chỉ để mời khách rồi xem khách uống và hỏi chúng tôi
cái rượu của cụ có được không. Tôi muốn ở lại trò chuyện với cụ về những Mai
Châu Đà Bắc ngày xưa. Nhưng hôm ấy Bản Lác đã đủ khách, không thể ở thêm. Trông
sang cửa sổ nhà bên, những Tây đầm tóc vàng, tóc bạch kim và đầu trọc ngồi lố
nhố. Dưới sàn, Tây ba lô dắt xe đạp khăn gói con cóc đeo lưng, đi nghênh ngáo.
Còn nghe kể chẳng mấy khi ở đây vắng Tây ba lô và sinh viên ta lũ lượt cưỡi xe
đạp xe máy ở Hà Nội lên. Cụ Nhấm hẹn tôi dịp khác.
Chúng tôi trở lại bản Phong Chóng, đã được đặt
chỗ nghỉ dưới ấy. Ngôi nhà sàn ở đây cũng thênh thang chẳng khác nhà cụ Nhấm.
Chặp tối, cơm rượu đã dọn ra, mỗi mâm cũng thịt luộc, cá không thui, mà cá rán
xào cà chua chẳng khác đám nhậu ngoài phố. Nhưng gói xôi nếp bọc lá chuối, người
ta vê bốc từng nắm và uống cái rượu gạo men lá nặng giọng còn hơi hướng biên giới
miền tây.
Rồi các cô trong bản đến hát múa. Thấy bảo chị
em hàng ngày làm đồng dệt cửi và đi rừng kiếm củi, tối có khách gọi thì đến
“giao lưu” được trả công. Chỉ tiếc các cô Thái hát tiếng Kinh. Dẫu tôi không biết
tiếng Thái, tiếng Mường nhưng chắc là nghe những giọng lạ tai ríu rít, líu lo
lên, hẳn là được mơ màng hơn. Và cũng chiêng cũng phách đệm lại thêm đàn măng
đô lin và ắc coóc, nghe trống xuôi kèn ngược những cái bà con tự biên tự diễn
này. Lại nực cười, có cái khèn Mông rởm không có lỗ thổi chỉ cần trang trí, một
anh chàng Mường nhảy lò cò.
Ở đất du lịch còn hoang sơ này cũng giống ở bản
Thanh Lương trên Điện Biên, trong làng có ông già Thái ngày trước lái bè vốn
tháo vát cũng cất cái nhà sàn to đón khách. Điện Biên đặc biệt có nhiều khách
Pháp. Những ông tù binh thủa nào vẫn hay đem vợ con đến thăm lại nỗi khủng khiếp
buồn. Huyện cũng chẳng có hoạt động du lịch, nhà ông lái bè được tiếp Tây, cho
Tây ngủ đêm. Thanh Lương cách cửa khẩu Tây Trang sang nước Lào có mươi bước đường,
tôi hỏi Tây lên đây có đòi hút hít không, chủ nhà lắc đầu, cười nhăn nhó, khó
hiểu.
Đêm gió man mác dưới khe sàn lọt lên lạnh một
bên má, tiếng gà gáy xa xa eo óc, trong cái ao trát xi măng, chốc chốc con cá
chuối quẫy đuôi đen đét và tiếng sàn cọt kẹt dưới lưng mới nhớ được đương trong
đêm làng rừng. Buổi sáng Mai Châu vào thu bâng khuâng. Làn sương mờ ảo bảng lảng
qua triền núi thấp thoáng xanh đậm xanh mờ, mà ban ngày đi trên Thung Khe nhìn
xuống nhìn rõ từng ô ruộng ô nhà thị trấn Phố Vãng giữa vệt đường sang Quan Hoá
bên rừng Thượng Thanh.
Vào quán uống tách cà phê vị mặn - chứ không
phải cái đắng quen thuộc. Có phải vị cà phê nông trường Cao Phong như thế hay
là cà phê bã của đêm qua, cũng ở quán này có karaôkê hát hét tưng bừng, phố huyện
núi cũng mới thêm trò này. Khách trong ngoài nước biết Mai Châu đã trên bốn
mươi năm nay. Ấy là chưa kể xưa kia, trai gái tết đi chơi các hang đẹp, các
quan Tây quan binh, quan phìa, quan lang đạo, lang cun đã biết chơi hang, tắm
suối dưới chân thác. Thế mà đến bây giờ du lịch Mai Châu vẫn chỉ tự phát, được
sao hay vậy. Cảnh và người thì nõn nà, tổ chức thì sài đẹn, những cái xộc xệch
chàng đáng có mà chẳng cấp nào để mắt đến.
Nghe nói đầu năm vừa rồi tỉnh Hoà Bình đã ra
quyết định đưa đất trời Mai Châu vào ngành công nghệ không khói hái ra tiền.
Người yêu Mai Châu mong tin ấy chóng chóng từ công văn sang công việc. Đã ngót
nửa thế kỷ qua rồi.
Tô Hoài
Nguyễn Đình Toàn Nơi Thành Phố Mất Tên - Mai Thảo
NGUYỄN
ĐÌNH TOÀN NƠI THÀNH PHỐ MẤT TÊN
Chiếc Honda xập xệ, khói bốc khét lẹt,
rời khỏi cái quán cà phê vỉa hè đối diện với tòa Lãnh sự Pháp, chạy ngược con
đường Phan Đình Phùng. Hai người đàn ông ngồi trên xe. Người ngồi trước, quần
áo nhầu nát, mái tóc rối bời trên vầng trán rộng, cặp kính trắng dày cộm trước
hai vũng mắt sâu trũng vì nhiều đêm không ngủ, phóng chiếc xe lao đi với tất cả
vẻ nóng nảy vội vàng. Chiếc xe tới ngã tư Đoàn Thị Điểm, mặc dầu có bảng cấm rẽ
trái, vì là đường một chiều, vẫn cứ bướng bỉnh rẽ trái giai và băng băng chạy vào
con đường này. Bỗng một tiếng còi rú lanh lãnh tiếp theo là một tiếng quát lớn
đầy giận dữ: “Ngừng lại!” Cùng với tiếng quát, một tên an ninh áo vàng cộng sản,
loắt choắt, từ một gốc cây chạy ra và chỉa thẳng cây súng vào chiếc xe bắt buộc
phải ngừng khựng lại. Người đàn ông lái xe buông một tiếng chửi thề và tắt máy.
Tên an ninh đi tới. Nhìn hai ng đàn
ông từ đầu đến chân, hất hàm:
–Đường cấm. Biết không?
–Chúng tôi biết.
–Đã biết sao còn chạy vào?
–Chúng tôi đang có việc gấp phải sang
ngay đường Hồng Thập Tự Anh bỏ qua cho chúng tôi đi.
Tiếng quát lớn hơn:
–Không được. Xuống xe.
Trước họng súng vẫn chĩa thẳng vào ngực,
hai người đàn ông đành tuân theo. Hai bên đường, một đám người tò mò từ từ đứng
lại trước cái cảnh tượng ngăn chặn hằn học, thù nghịch và quê mùa đầy rẫy trên
phố xá Sài Gòn từ lúc thành phố đâu đâu cũng có những cái áo vàng và những đôi
dép Bình Trị Thiên của công an miền Bắc. Hai tờ giấy cư trú tạm thời, một ở
làng Báo Chí Thủ Đức một ở đường Phan Đình Phùng được đưa ra. Tên an ninh chỉ
liếc qua không thèm đọc. Lại lớn tiếng quát tháo:
–Có mang khí giới không?
Hai người đàn ông chạy ngược con đường
Đoàn Thị Điểm buổi sáng Sai Gòn hôm ấy, bị an ninh áo vàng chặn lại, lúc ấy miền
Nam đã mất vào tay kẻ thù mấy tháng rồi, người lái xe là nhà văn Nguyễn Đình
Toàn và người ngồi ở yên sau là tôi. Sáng đó, chúng tôi vội thật. Có một cái hẹn
khá quan trọng tận trong Chợ Lớn. Tôi chỉ buồn cười về chuyện gặp an ninh.
Nhưng Nguyễn Đình Toàn thì mất vui thật sự. Hủy bỏ cái hẹn, ông lái xe đưa tôi
trở về, rồi về ngay nhà ông ở làng Báo Chí Thủ Đức.
Như phần lớn những nhà văn Việt Nam của
ba thập niên 1950, 1960 và 1970, thành danh ở nơi tài viết đã tỏ hiện ở ngay
tác phẩm đầu, tác phẩm đầu tay ấy thường là một tập truyện ngắn (như Võ Phiến với
tập Chữ Tình. Túy Hồng với tập Thở Dài, Trùng Dương với tập Mưa Không Ướt đất),
tài văn Nguyễn Đình Toàn cũng được nhìn thấy ngay từ cuốn sách thứ nhất. Đó là
tập truyện ngắn Chị Em Hải, cơ sở Tự Do xuất bản. Tập truyện vừa ra mắt đã được
nhiều nhà phê bình không tiếc lời khen ngợi và được in lại lần thứ hai. Mọi người
tưởng rằng với thành công thứ nhất Nguyễn Đình Toàn được đà sẽ có ngay nhiều
tác phẩm khác. Sự thật lại không phải như vậy sau Chị em Hải, là một thời gian
im lặng khá lâu dài. Nguyên nhân có thể là tình trạng sức khỏe bết bát của Nguyễn
Đình Toàn.
oOo
Giống nòi những người làm văn học nghệ
thuật Việt Nam từ quá khứ tới giờ, và như chúng ta đã biết, phần lớn đều không
có được cho mình một thể lực cường tráng, một sức khỏe sung mãn. Thanh bạch,
nghèo túng mở rộng nhưng ngã đường khốc liệt đưa tới bệnh tật. Và bệnh tật hiểm
nghèo đốn ngã, rút ngắn những đời sống đã lấy mất đi của chúng ta biết bao nhiều
tài năng trác tuyệt, khi những tài năng này đang giữa tuổi đời, mới chỉ đi một
khúc ngắn của con đường lẽ ra phải được kéo dài nhiều hơn nữa.
Dòng văn chương tiền chiến, Thạch
Lam, Vũ Trọng Phụng 27 tuổi đã mất. Leiba, Hoàng Đạo, Đinh Hùng, Nguyễn Nhược
Pháp, Hàn Mặc Tử, Nam Cao, Nguyễn Bính, đều từ trần rất sớm, nấm mồ đã xanh cỏ
khi tuổi đời mới ở giữa trung niên. Thế hệ những nhà thơ, nhà văn sau và tới
bây giờ cũng vậy. Vẫn cái vòng tối xám ấy. Vẫn đời sống cơ cực đưa tới bệnh tật,
tới bệnh viện, tới bờ huyệt, Quách Thoại cũng 27 tuổi đã từ trần. Gần với chúng
ta bây giờ là Xuân Hiền, Thành Nam, cây bút đã sớm rời khỏi người, đánh dấu cho
hai sự nghiệp văn chương mới nửa chừng, còn bỏ dở.
Tuy chưa mất nhưng Nguyễn Đình Toàn từ
lâu đã nằm trong trường hợp những nhà văn lúc nào cũng như đã có một cái vé cho
chuyến tàu suốt đi vào tịch mịch, lúc nào cũng như đã sẵn sàng để thần chết tới
đưa đi, đau tim, đau phổi trầm trọng, hàng chục chứng bệnh nữa trong cái thân
thể còm cõi gầy yếu, tưởng chừng gió thổi cũng ngã, đó là Nguyễn Đình Toàn
trong trí nhớ tôi. Đó là Nguyễn Đình Toàn đau, và cái thời gian ngừng viết nhiều
năm, chỉ còn là người công chức mà đau yếu đã làm già cằn trước tuổi, người ta nhìn
thấy như một hình bóng lắt lay, lủi thủi ở một góc bàn biên tập của Đài Phát
Thanh Sài Gòn.
Toàn làm tôi nhớ lắm đến Quách Thoại,
những ngày cuối cùng của Quách Thoại, và mấy câu thơ đi thăm bạn đợi chết ở bệnh
viện của Thanh Tâm Tuyền
Mây đục đậu trên thành cửa sổ
Người nằm ôm chân mảng nhớ đời
Bệnh viện thành công viên khuất nẻo
Người ngủ một mình đợi chúng tôi
Quách Thoại. Người ngủ một mình đợi
chúng tôi, sự rũ liệt bải hoải. Hố mắt sâu trũng, hơi thở nhọc nhằn. Quách Thoại.
Những bước lết đi trên hè phố và bộ ngực mỏng như một tờ giấy.
Thể chất Nguyễn Đình Toàn cũng yếu
nhược và sức khỏe Nguyễn Đình Toàn cùng mong manh như thế. Nhớ một buổi chiều,
chúng tôi cùng quây quần chung quanh một bàn ăn của nhà hàng Hải Biên trước chợ
Bến Thành, nhà hàng này nổi tiếng nhờ ba phương trượng của nhóm Quan Điểm là Vũ
Khắc Khoan. Nghiêm Xuân Hồng, Mặc Đỗ thưởng xuyên có mặt. Nguyễn Đình Toàn tới.
Vẫn một Nguyễn Đình Toàn còm cõi trong chiếc áo sơ-mi quá rộng, cánh tay khẳng
khiu và cặp mắt cận thị sâu trũng. Ngồi một lát rối ông kêu khó chịu trong người
và nói phải lập tức về nhà uống thuốc. Nhưng chưa ra tới cửa ông đã đưa tay lên
ôm lấy ngực, lảo đảo và quỵ xuống, gần như ngất đi. Tối đó, chúng tôi phải vực
ông ra xe, đưa về tận nhà và gọi ngay một bác sĩ tới. Căn nhà nữa, căn nhà phía
sau Đài Phát Thanh Sài Gòn nơi Nguyễn Đình Toàn ở cho đến khi dọn về làng Báo
Chí Thủ Đức, cũng thường xuyên một không khí xanh yếu và bệnh tật như người. Mấy
đứa nhỏ quặt quẹo, quấy khóc. Những lọ thuốc la liệt, cùng khắp. Những cửa sổ sợ
gió đóng kín. Và giữa vùng u uất thiếu ánh sáng này là một Nguyễn Đình Toàn
không thể hàng ngày tới trước bàn viết, bởi đang đau hết bệnh này tới bệnh kia.
Thành ra ngay ở thời kỳ khởi đầu và trẻ trung nhất của ông với tập truyện ngắn
đầu tay Chị Em Hải, nghĩ tới Nguyễn Đình Toàn là chúng tôi nghĩ ngay tới Thạch
Lam, tới Quách Thoại. Tới một đoạn đường ngắn cụt. Tới một sự nghiệp đứt đoạn.
Tới một cáo phó thấp thoáng một chia buồn không xa.
Điều gì giúp cho Nguyễn Đình Toàn sống
được tới bây giờ, viết thêm được ngót hai chục tác phẩm khác sau Chị Em Hải,
không thuốc thang đầy đủ mà đánh thắng được đau tim đau phổi hiểm nghèo, tôi
không biết được. Đích thực đây là một trường hợp thật đặc biệt. Và nếu nhất định
phải có một giải thích thì là đời sống văn mạnh hơn hết thảy, đời sống mạnh hơn
nghìn lần bệnh tật, cái chết, và trong một Nguyễn Đình Toàn nhợt nhạt lại ẩn dấu
một sức sống tinh thần mãnh liệt, và cái tinh thần cường tráng đã cứu sống được
cái thể chất mong manh. Cuối cùng là Nguyễn Đình Toàn lại có thêm những đất trời
văn chương mới, sau Chị Em Hải. Sự có thêm này rất đáng ghi nhận. Mặc đầu nó vừa
là một thành tựu vừa là một thất bại trong vận động và đi tới của văn chương
Nguyễn Đình Toàn.
Thập niên 60 đánh dấu sự hình thành từ
Pháp một trào lưu mới của văn chương tiểu thuyết, tiếng Pháp gọi là Nouveau
Roman, tức Tiểu Thuyết Mới, còn được gọi là Anti Roman qua cái nghĩa Tiểu Thuyết
Mới chống nghịch lại hết thảy mọi khái niệm về văn chương tiểu thuyết cổ điển
trước nó, đưa ra những khái niệm tiểu thuyết mới lạ hoàn toàn. Trình bầy về trường
phái Tân Tiểu Thuyết này, còn được gọi là Trưởng Phái Của Cái Nhìn (Ecole Du
Regard) phải cả ngàn trang sách, vì cuộc vận động rất bác học, rất trí tuệ, rất
cách mạng văn học.
Nhưng mấy đặc thù chính yêu tiểu thuyết
của nhóm Tân Tiểu Thuyết thì là: nhà văn cắt bỏ hoàn toàn những nhận thức chủ
quan, những nhận thức ấy theo lý giải của Trường Phái Cái Nhìn chỉ làm biến tướng
biến hình sự vật, chứ không thể hiện được chân tướng uyên nguyên của sự việc.
Như danh từ cái nhìn đã trở thành danh từ trường phái, nhà văn chỉ có nhiệm vụ
của một đôi mắt, một ống kính nhiếp ảnh. Đôi mắt ấy nhìn thấy thôi, không phê
phán, không tư duy. Ống kính nhiếp ảnh ấy chụp hình thôi, chụp từ thật nhiều phía
càng hay, từ viễn ảnh tới cận ảnh, tơ tóc, tinh vi, nhưng chụp thôi, tuyệt đối
chỉ chụp, một cách lạnh lùng gần như vô tri, nghĩa là sự vật và đời sống nhìn
thấy thế nào thì miêu tả khách quan, chứ không gửi gắm vào miêu tả nhận thức hoặc
tâm trạng chủ quan của người viết.
Với những người đại diện có tài năng
văn chương đích thực như Alan Robble Grellet, Claude Simon, Nathalie Sarrante
(người thứ ba, một nhà văn nữ, là tác giả cuốn tiểu luận Kỷ Nguyên Của Ngờ Vực
về trường phái Tân Tiểu Thuyết rất nổi tiếng) nhóm trường phái Cái Nhìn đã đem
lại một cuộc cách mạng đích thực cho văn chương tiểu thuyết thế kỷ. Từ lập luận
cách mạng, bút pháp, câu văn, lối viết của nhóm Tân Tiểu Thuyết cũng là những
phá vỡ, những làm mới hết sức táo bạo. Chẳng hạn như một truyện ngắn của Simon,
của Grillet dài ba, bốn chục trang chỉ để tả đi tả lại, tả tới tả lui một cục tẩy.
Như tả đi tả lại, tả tới tả lui, từ trước tới sau, từ phải sang trái, một người
đi đường, lúc đi, lúc ngưng, lúc hút thuốc lá, lúc bật cơn ho, không thiếu một
chi tiết nào kể cả những chi tiết tưởng chừng dư thừa và vô nghĩa. Câu văn mang
hình ảnh của nghệ thuật miêu tả triền miền năm bảy chục trang không có một xuống
dòng, cả truyện từ đầu đến cuối có khi chỉ là một câu văn, không một dấu phẩy,
một dấu chấm.
Hình thành ở Âu Châu, được tiếp nhận
như một khám phá tân kỳ vào văn chương Việt Nam thập niên 60, trường phái Tân
Tiểu Thuyết đã có ở Nguyễn Đình Toàn người tín đồ nhiệt liệt nhất. Ông bỏ hắn lối
viết cũ. Để viết truyện và dựng truyện trên khái niệm về văn chương tiểu thuyết
của trường phái Cái Nhìn. Ông kéo theo một số bạn đường khác là Huỳnh Phan Anh,
Nguyễn Quốc Trụ, Đặng Phùng Quán nữa (nhưng không hoàn toàn) và tạo thành, nếu
không đủ để gọi là một trường phái thì cũng là một khuynh hướng Tân Tiểu Thuyết
ở miền Nam.
Ở trên, tôi có nói vận động văn
chương này của Nguyễn Đình Toàn và các bạn ông vừa là một thành tựu vừa là một
thất bại. Như trào lưu Tân Tiểu Thuyết cũng vậy cũng vừa là một thành tựu vừa
là một thất bại. Thành tựu nơi Tân Tiểu Thuyết đã đem lại cho văn chương tiểu
thuyết một chân trời, một khả hữu mới. Về ngôn ngữ, về kỹ thuật. Thất bại là
Tân Tiểu Thuyết đã không thuyết phục được người đọc tiểu thuyết, trước sau vẫn
chỉ muốn nhìn tiểu thuyết một hình thái văn chương phổ biến, tiểu thuyết giản dị
xã hội và đời sống thuật lại thành truyện kể, qua tâm hồn, ý thức và rung động
của nhà văn. Tác phẩm của Nathalie Sarrante, Alan Robble Grillet, Claude Simon
do đó, trên chiều hướng phá vỡ nền tảng tiểu thuyết cổ điền thì tuyệt hay, lý
luận cảm rất khoa học tân kỳ, nhưng trên mặt thực hiện lại thất bại, vì công
trinh không còn là tiểu thuyết nữa. Trường Phái Cái Nhìn cuối cùng chỉ gây chấn
động được một thời kỳ rồi mờ nhạt dần trên một đường lề, chỉ được kiếm tìm bởi
một số người đọc càng ngày càng giảm thiểu. Có điều là Nguyễn Đình Toàn không hề
quan tâm tới thành công hay thất bại trước người đọc về cõi văn Tân Tiểu Thuyết
sau này của tiểu thuyết ông. Ông viết hoàn toàn theo ý thích và niềm tin của
chính mình. Tôi cho đó là một thái độ rất nhà văn, rất trí thức của Nguyễn Đình
Toàn. Thái độ văn chương này, Nguyễn Đình Toàn giữ vững cho ông tới quốc nạn
1975. Thái độ này đã tạo được cho Nguyễn Đình
Đình Toàn trong văn chương tiểu thuyết
ta, một địa vị riêng mà những đồng hành với ông như Huỳnh Phan Anh, Nguyễn Quốc
Trụ không có được.
oOo
Ban Mê Thuột thất thủ. Giữa một
Saigon nhốn nháo xôn sao vì chiến tranh đã đe dọa từ rừng núi xuống gần, gia
đình Nguyễn Đình Toàn được một người chú bên vợ giao cho một biệt thư nhỏ khu
Tân Định trước khi người chú rời Việt Nam sang Pháp. Buổi sáng tôi và Nguyễn
Đình Toàn chạy xe Honda ngược đường bị an ninh áo vàng chặn lại đã kể ở trên là
tuần lễ ông từ làng Báo Chí Thủ Đức về Saigon để thông báo về đổi chỗ ở với phường
quận và tiếp thu biệt thị bỏ lại ấy. Ông bàn với tôi sẽ đặt biệt thự thành nơi
lui tới hàng ngày của bạn thân. Và để mưu sinh, mặt tiền biệt thư sẽ thu dọn
thành một quán hàng bán thuốc lá cà phê và điểm tâm, tất cả trong phạm vi thân
mật gia đình và vợ con coi sóc, Biệt thư ấy, Nguyễn Đình Toàn chỉ tới ở được
đúng 48 tiếng đồng hồ. Mặc dầu đầy đủ giấy tờ thị thực san nhượng của người chú
vợ để lại, ông đã bị phường khóm tới làm khó dễ và buộc ông phải trở về chỗ ở
cũ, điều mà Nguyễn Đình Toàn đã phải làm theo.
Và tôi, mỗi lần muốn gặp tác giả Chị
Em Hải lại phải lóc cóc đạp xe đạp lên làng báo chí Thủ Đức.
oOo
Tin tức từ quê nhà đưa sang cho hay
Nguyễn Đình Toàn may mắn không có tên trong danh sách những nhà văn, nhà báo miền
Nam bị bắt giữ trong đợt đàn áp khủng bố năm 1976 và trong những đợt đàn áp kế
tiếp. Văn chương Tân Tiểu Thuyết được chế độ mới đánh giá là tuy thoái trào, là
sản phẩm của văn chương tư sản, nhưng sạch sẽ, không chống cộng, không đồi trụy
nên Nguyễn Đình Toàn được yên thân. Chỉ bị cấm viết lại như mọi người. Tin nhà
cho biết thêm Nguyễn Đình Toàn sống cơ cực, âm thầm ở làng Báo Chí, hàng ngày
vác cần đi câu, làm ông Lã Vọng của thời đại mới, mảnh đất phía sau nhà dọn
thành chuồng nuôi thỏ nuôi gà. Rồi lại có tin Nguyễn Đình Toàn bị bắt. Vì vượt
biên bại lộ. Bị giam ở khám Chí Hòa ba năm, từ 1977 tới 1980. Không biết thế
nào. Đời sống lắt lay của Nguyễn Đình Toàn bây giờ đã xa vời, nghìn dặm, tôi
không kiểm chứng được.
Chỉ nhớ mãi cái lần cuối cùng gặp
Nguyễn Đình Toàn, trước khi tôi dứt rời hoàn toàn với ông trong hai năm ẩn
lánh. Hôm đó, tôi đạp xe lên làng Báo Chí một mình. Ngôi làng, ngày trước có những
công dân của văn chương, nghệ thuật là Du Tử Lê, Nguyễn Thị Thụy Vũ, Trần Cao
Lĩnh và hàng chục gia đình nhà văn, ký giả khác, là một vùng sinh hoạt rất sinh
động, rất tươi vui. Chúng tôi thường mỗi cuối tuần từ Saigon kéo nhau lên, bầy
cuộc ăn nhậu vui chơi rồi ngủ lại tới hôm sau mới trở về.
Lần cuối cùng tới làng Báo Chí, như tới
một nghĩa trang, một đất chết. Du Tử Lê, Trần Cao Lĩnh đã bỏ đi. Những người
còn lại hoặc bị bắt hoặc bị dồn về những vùng kinh tế mới. Ngôi làng, cỏ mọc um
tùm, không khí thê lương, những dãy nhà bỏ trống, tịch mịch như những nấm mồ,
và không gặp ai khác, tưởng như chỉ còn độc Nguyễn Đình Toàn ở đó. Như một có mặt
mồ côi. Như một hiện hữu trơ trọi. Vợ con ông đi vắng hết, ngôi nhà trống
không, buồn thảm. Lãnh tụ Tân Tiểu Thuyết đón tôi vào. Vẫn gầy guộc, vẫn nhợt
nhạt, vẫn rất Nguyễn Đình Toàn. Lẳng lặng dọn một xị đế và hai cái ly trên mặt
sàn. Cười, nửa vui, nửa buồn:
–Tao không bết như ngày trước nữa
đâu. Giờ nhậu một cây. Như chúng mày rồi.
Đoạn vào bếp. Tôi theo sau. Món Nguyễn
Đình Toàn chính tay làm và đãi tôi hôm đó là món mì xào thịt bò. Tự khoe, trước
cái chảo gang nóng rẫy:
–Ăn rồi coi. Tao xào còn ngon hơn
La-Cai, Chợ Lớn.
Chiều Thủ Đức lần ấy, tôi đã đối ẩm với
Nguyễn Đình Toàn lúc Làng Báo Chí chung quanh tối thẳm. Đạp xe trong đêm trở và
Saigon, tôi nghĩ chắc còn lâu mới lại lên làng Báo Chí, gặp lại bạn. Lâu thật.
Không ngờ lâu đến thế. Đã mười năm rồi. Và chắc cũng chẳng bao giờ nữa.
Mai Thảo
Sunday, July 27, 2025
Thơ Xướng Họa - Nhóm Bạn thơ
THƠ XƯỚNG HỌA - NHÓM BẠN THƠ
Xướng:
Trường đời
Trường đời tốt nghiệp đã xong
Ba phần thế kỷ nỗi lòng cưu mang
Cháu con thế hệ rõ ràng
Lưu vong hiệp chủng bình an xứ người
Trời sinh cây cỏ tốt tươi
Trông về quê mẹ rả rời ruột gan
Thương ai lệ đổ hai hàng
Danh đề bảng hổ trái ngang sự đời
Về chiều sớm tối đơn côi
Đoạn trường thui thủi chơi vơi một mình
Đời người một kiếp phù sinh
Sớm còn tối mất nghĩa tình đầy vơi
Hương Lệ Oanh VA
Jun. 06, 2025
Họa 1:
Nỗi lòng
Dốc đời ngã rẽ vừa xong
Ta về vườn cũ cõi lòng mang mang
Từ ly cách biệt khó ràng
Hành trình lưu lạc tâm an đất người
Dựng xây cuộc sống hồng tươi
Nhớ về quê cũ rụng rời tim gan
Thương cha từ lúc tan hàng
Nhớ mẹ từ lúc ngổn ngang sự đời
Cuối đường mẹ sống đơn côi
Nỗi đau trần thế khó vơi phận mình
Phù du một kiếp nhân sinh
Chốn xưa còn đó ân tình nào vơi?!!
Nguyễn Cang
Jul. 14, 2025
Họa 2:
Kiếp người
Mộ nàng giờ đã xây xong
Bao nhiêu nỗi nhớ đáy lòng anh mang
Tình anh muôn kiếp rõ ràng
Mong em giấc ngủ chiêu an kiếp người
Cuộc đời nào có vui tươi
Tranh đua thù hận tách rời tâm gan
Nhớ em lệ đổ đôi hàng
Bao nhiêu kỷ niệm ngổn ngang trong đời
Giờ đây anh đứa mồ côi
Một thân một bóng vơi vơi một mình
Ngày ngày lầm lũi mưu sinh
Đêm đêm hồn thả nhạc tình chơi vơi
THT
chiêu an 招安: vỗ về
Họa 3:
Riêng tôi
Ở đời học dễ nào xong
Nên xin khép lại để lòng thôi mang
Vơi đi đôi chút buộc ràng
Tìm vui tại thế yên an cõi người
Tâm bình trí rạng hồn tươi
Tranh đua sai dúng sao rời tấc gan
Ai thua ai thắng ai hàng
Tương lai quá khứ ngổn ngang suốt đời
Thôi thì giữ niệm mân côi
Giúp người an lạc cùng vơi nỗi mình
Thiện hành góp với nhân sinh
Yêu ai một dạ chung tình khôn vơi.
TQ
Jul 14, 2024
Họa 4:
Chiều buồn
Cơn mưa tầm tả vừa xong
Gió hiu hiu lạnh cho lòng mênh mang.
Chuyền cành chim hót rộn ràng,
Như lời tâm sự giúp an lòng người.
Khuất dần vệt nắng hồng tươi
Lạnh lùng sương phủ rụng rời buồng gan.
Đèn đường loang loáng giăng hàng
Làm sao soi tỏ dọc ngang nẻo đời.
Lưng trời nhạt ánh trăng côi,
Cung đàn khoan nhặt mong vơi lòng mình.
Buồn vui đầy kiếp nhân sinh,
Vần thơ cung nhạc ươm tình chơi vơi.
Minh Tâm
Friday, July 25, 2025
Mênh Mông - Nguyễn Cang
MÊNH MÔNG
Dòng đời thế kỷ điêu linh
Trăm năm một cõi cho mình biệt ly
Trần ai mấy nẻo đi về
Đầu nguồn thác đổ chân đê cạn dòng
Mịt mù khói tỏa trời đông
Hải âu vỗ cánh bay trong chiều tà
Thả hồn theo hạt mưa sa
Đêm khuya nằm mộng thiết tha tình nồng
Bỗng nghe tiếng vạc bên sông
Giật mình tỉnh giấc tuyết đong mái nhà
Còn đây xao xác tiếng gà
Hoàng hôn buông xuống Trường Sa gục đầu
Mộng về đâu thực về đâu
Chiều nghiêng nắng đổ giọt sầu nào vơi?!!
Nguyễn Cang (Jul. 13, 2025)
Đặng Thế Phong - Nguyễn Đình Toàn
ĐẶNG THẾ PHONG
Đặng
Thế Phong là một trong những nhạc sĩ tiền phong của chúng ta. Ông mất rất sớm,
mới ngoài hai mươi tuổi. Ông chỉ để lại có ba bản nhạc.
Cũng
có người cho rằng ông có tới bốn hay năm bài. Nhưng thực tế, không ai biết cái
bài thứ tư, thứ năm đó. Vậy chỉ nên coi những bài mọi người đều đã biết: Giọt
Mưa Thu, Con Thuyền Không Bến và Đêm Thu,
chính thức là những tác phẩm của ông.
Những
người đồng thời với Đặng Thế Phong kể lại rằng ông thời với Đặng Thế Phong kể lại
rằng ông muốn trở thành họa sĩ chứ không phải nhạc sĩ.
Cũng
như Nhất Linh, Đặng Thế Phong đã thi vào trường Mỹ Thuật Đông Dương ở Hà Nội,
nhưng rồi bỏ dở ý định theo đuổi hội họa.
Và
cái việc Đặng Thế Phong thi vào trường Mỹ Thuật ấy, đã để lại một huyền thoại.
Nghe nói ông đã vẽ một thân cây cụt (không có ngọn), rất đẹp. Vị giáo sư người
Pháp chấm bài, khen ngợi, nhưng nói rằng: “E Đặng Thế Phong không sống lâu được.”
Nhớ,
xa hơn nữa, các cụ ta cũng truyền lại rằng, một học giả Trung Hoa, sau khi đọc
xong Chinh Phụ Ngâm của Đặng Trần Côn, đã nói: “Người này nhiều
lắm 5 năm nữa sẽ chết, vì tinh hoa trút hết ra cả đây rồi”.
Cả
hai sự tiên liệu đều đúng.
Như
thế, cả Tây lẫn Tàu đều trông vật mà biết bệnh? Hay đó chỉ là điều giản dị như
Shakespeare đã nói “trái nào chín trước nhất thì rụng trước hết?”
Ba
ca khúc của Đặng Thế Phong được viết vào những ngày nền tân nhạc của chúng ta
khởi đầu, và đều là những tình khúc.
Và
tình khúc Đặng Thế Phong, ngay từ những ngày xa xôi ấy, đã có một tầm vóc khác:
Biết
đâu bờ bến
Thuyền
ơi thuyền trôi nơi đâu
Trên
con sông Thương nào ai biết nông sâu
Nhớ
khi chiều sương
Cùng
ai trắc ẩn tấm lòng
Dứt
bao tình thương
Thuyền
mơ buông trôi theo dòng
Bến
mơ dù thiết tha
Thuyền
ơi đừng chờ mong
Trong
ngần ấy lời ca chữ nào nói đến tình yêu, chữ nào không? Hình như không phải chỉ
là con thuyền buông trôi theo dòng mà có cả kiếp người trôi trong dòng đời, cái
có thật và cái tưởng tượng đều lẩn khuất sau một màn sương, chúng ta nhìn nhau
với lòng trắc ẩn, hạnh phúc khó khăn hay chỉ sống không thôi đã là một điều khó
khăn, “bến mơ dù thiết tha, thuyền ơi đừng chờ mong”, chúng ta chẳng thể nào tới
được nơi mong ước cũng không biết đã ra đi từ đâu:
Thu
xưa xa xăm ngoài chân mây
Thu
nay bơ vơ thuyền trôi đây
Phải
chăng thuyền nhớ nơi non bồng
Nơi
đã bao phen chùng tơ lòng…
Con
sông nào chẳng có hai bờ, nhưng bờ có phải là bến không?
Nghe
nhạc Đặng Thế Phong là nghe lấy những tiếng ở giữa chừng đời sống ấy, tiếng va
chạm của cái chốn xa xăm ngoài chân mây với cái cõi bơ vơ thuyền trôi đây.
Người
ta không hiểu sao ở ngưỡng cửa của tuổi hai mươi Đặng Thế Phong đã nghe ra cái
tiếng nhân thế bao la sầu như ông viết trong Giọt Mưa Thu:
Hồn
thu tới nơi đây gieo buồn lây
Phòng
vắng bốn bề không liếp che gió về
Ai
nức nở thương đời châu buông mau
Dương
thế bao la sầu…
Nghe
nói khi mới viết xong ca khúc này Đặng Thế Phong đã đặt tên là Vạn Cổ Sầu rồi
sau đó mới đổi thành Giọt Mưa Thu.
Cả
ba ca khúc Đặng Thế Phong để lại cho đời đều là những bản thu ca.
Điều
này nữa có phải cũng là một báo hiệu cái mùa đông sửa đang đón đợi ông?
Lấy
những cái đã xẩy ra rồi để giải thích sự việc, người ta thường tìm cách ráp sao
cho ăn khớp, điều ấy dễ thôi. Nhưng quả thật nghe lại nhạc Đặng Thế Phong,
chúng ta sẽ thấy, chỉ cái mùa vạn vật dường như đắm một nữa trong mộng ấy, mới
thích hợp với tâm hồn ông.
Tất
cả các lời ca của Đặng Thế Phong đều long lanh sáng. Nhưng chúng không sáng cái
ánh sáng của mặt trời, mà sáng cái sáng của lân tinh, của ánh trăng. Cái buồn
trong nhạc của Đặng Thế Phong còn có thêm một cái buồn lây của đóa hoa đứng im
như mắc buồn, nỗi buồn đọng lại hay mùa đông buồn trong ánh sao, cả ba cách
dùng đều có nghĩa.
Cũng
nên nói thêm là gần đây, những bài hát gọi chung là tiền chiến, được thu thanh ở
cả trong lẫn ngoài nước, có đến chín phần mười sai. Sai cả nhạc lẫn lời. Nói
sai là căn cứ vào những gì đã được in ra, phổ biến trước đây.
Trường
hợp chính tác giả viết lại thì đành chịu, không thể nói là sai được.
Trở
lại với Đặng Thế Phong.
Ông
đã bỏ không đặt tên ca khúc của mình là Vạn Cổ Sầu.
Nhưng
ông đã để lại nỗi sầu ấy cho chúng ta và có lẽ cho cả những người sau này nữa.
Cái
chết của Đặng Thế Phong, cái chết của Nguyễn Nhược Pháp, của Thạch Lam, cho đến
bây giờ, nhớ lại, nghe nhắc lại, chúng ta vẫn chưa hết ngẩn ngơ, vì không muốn
tin, không tin được đó là sự thật, những bậc tài hoa như thế, tiếc thay tài sao
đành lỡ làng (Dương Thiệu Tước).
Chúng
ta tiếc vì nghĩ rằng, nếu những người ấy không chết yểu như vậy, chắc chúng ta
còn được thưởng thức thêm nhiều tác phẩm. Có đúng như vậy không?
Giả
thử ước muốn của chúng ta có thể trở thành sự thật thì những cuộc sống thêm ấy
sẽ là bao lâu?
Chính
xác là bao lâu sẽ vừa với ước muốn của chúng ta?
Và,
liệu chính những người ấy, có ưng vậy chăng?
Nguyễn
Đình Toàn
Quận
Cam, California.
(Trích
Khởi Hành)
Nhà văn Nguyễn Đình Toàn sinh năm 1936
tại Hà Nội, tị nạn Cộng Sản lần thứ nhất năm 1954; trước 1975 làm việc tại Đài
Phát Thanh Sài Gòn, nổi tiếng với chương trình Nhạc Chủ Đề trên đài này, trong
khi cộng tác với các tạp chí văn học bằng các truyện ngắn, và thơ. Năm 1998 ông
tị nạn Cộng Sản lần thứ hai, qua Hoa Kỳ và trở lại hoạt động mạnh trong lãnh vực
âm nhạc, cho thực hiện hai cuốn CD ngay khi phát hành đã được đón nhận nồng nhiệt:
Hiên Cúc Vàng với chỉ một giọng ca Khánh Ly, và Tình Ca Việt Nam với Duy Trác,
Khánh Ly, Sĩ Phú, Thái Thanh, Võ Anh Tuấn, Lệ Thu. Tác phẩm văn chương của ông
có thể kể: Chị Em Hải, 1961, tác phẩm đầu tay, nhật báo Tự Do xuất bản, Những Kẻ
Đứng Bên Lề, 1964, Con Đường, 1967, Ngày Tháng, 1968, Đêm Hè, 1970, Giờ Ra
Chơi, 1970. Không Một Ai, 1971, Thành Phố, 1971, Tro Than, 1972. Năm 1973 Nguyễn
Đình Toàn được trao giải Văn Học Nghệ Thuật Toàn Quốc (VNCH) bộ môn truyện, với
tác phẩm Áo Mơ Phai. Ông và gia đình hiện cư ngụ tại thành phố Westminster,
California.







