Thời gian đầu, sau khi cộng sản đã lấy
nốt được miền Nam là thời gian còn được để yên, chưa bị kết tội, chưa bị lùng bắt,
tôi thường sáng sáng một mình đạp xe đạp qua một Sài Gòn tan nát tới thăm một
nhà thơ và một nhà văn, ngưởi trước Bắc, người sau Nam, cả hai đều thuộc thế hệ
trước tôi, cả hai đều đã tên tuổi lẫy lừng từ thời tiền chiến.
Những thăm viếng thường xuyên này của
tôi, giữa Sài Gòn và trong đổi đời lúc đó được đọc bởi hai điều. Một, hai khuôn
mặt lớn ấy của văn học Miền Nam, từ quốc nạn 1975, đã đóng kín địa chỉ, dựng
cao lũy hoa, cắt đứt với đời, không ra khỏi nhà, muốn gặp họ tôi phải tìm tới.
Hai, giữa cái thể chế chuyên chính đã trùm kín, chưa bao giờ trong đời tôi lại
cảm thấy sự cần thiết lớn lao phải giữ chặt lấy một số thân tình bền vững tôi hằng
mến yêu và kính trọng. Và hai cái đối tượng của thăm viếng thường xuyên thì với
tôi lại là hai niềm mến yêu và kính trọng vô cùng. Nhà thơ miền Bắc tôi vừa nói
tới là
Vũ Hoàng Chương. Và nhà văn miền Nam,
Bình Nguyên Lộc.
Vũ Hoàng Chương thời gian đó ở khá
xa, mãi bên vùng Khánh Hội, trong một ngõ hẻm khuất khúc giữa phường Cây Bàng,
trên căn Gác Bút lừng tiếng, nơi thi sĩ bị công an cộng
sản tới bắt đem giam nhốt vào khám Chí Hòa rồi trở về trong hấp hối lâm chung
và lìa đời ở đó.
Bình Nguyên Lộc ở gần hơn. Thăm viếng
do vậy cũng ngắn đường hơn, trong cuối đáy một con ngõ yên tĩnh một thời Vũ
Hoàng Chương đã ở, khu Cô Giang Cô Bắc, đầu ngõ là con đường Huỳnh Quang Tiên,
khúc từ con ngõ nhìn ra có những vì tường xám của hãng thuốc lá MIC chạy dài
trước mặt.
Tới ngõ, tôi xuống xe dắt bộ đi vào,
và ngừng lại trước một căn nhà một tầng cổ cũ, căn nhà này là của gia đình Bình
Nguyên Lộc, nhà văn chỉ mới dọn về ở một thời gian từ sau cái chết của người
con trai lớn là Bác sĩ Giám Đốc Dưỡng Trí Viện Biên Hòa, để sống gần với người
chị ruột ở căn nhà kế cận.
Mở cánh cổng thấp, dựa xe vào thành
tường, bên cạnh hai chậu vạn niên thanh trấn môn xanh ngắt, một màu xanh muôn
thuở, tôi gõ nhẹ tay vào thành cửa đóng kín. Nhớ lần nào tôi cũng phải đứng chờ
ít phút, nhưng không lần nào phải trở về. Căn nhà yên lặng hoàn toàn. Tiếng gõ
cửa ngân vào thật sâu thật xa ở bên trong, rồi là tiếng chân người đi ra. Rồi
là cánh cửa hé mở từ từ và cái thân hình nhỏ bé, bộ đồ ngủ lùng thùng và cái
mái tóc rẽ giữa duy nhất của văn học miền Nam, cái mái tóc rẽ giữa của Bình
Nguyên Lộc.
Bao nhiêu lần như bao nhiêu lần, và cảm
giác này càng rõ rệt những buổi sáng tới bạn sau vực thẳm 1975, lần nào nhìn thấy
Bình Nguyên Lộc, tao nhã, gầy guộc, trên cái nền mờ tối của căn nhà đóng kín,
tôi cũng có được tức khắc, ở trong tôi, như một mầu nhiệm êm đềm, một ấm áp và
một yên tâm không thể nào tả được. Ấm áp như cái thế giới tiểu thuyết Bình
Nguyên Lộc, không siêu hình, không gió bão, cái thế giới đã bốn mươi năm văn học
ở trong đời sống và làm cho đời sống muôn vàn tươi thắm. Yên tâm như cái văn phong,
cái nhân cách Bình Nguyên Lộc, dung dị mà bác học, đơn giản mà trí thức, Bình
Nguyên Lộc con người và Bình Nguyên Lộc tác phẩm chính là niềm yên tâm lớn nhất
một thời của văn học chúng ta.
Thấy anh, lần nào tôi cũng nói, cảm động
thành thực:
–Còn được tới thăm anh.
Lần nào anh cũng cười:
–Còn được gặp anh. Vào đây.
Anh bảo tôi đưa xe vào nhà, kẻo xe mất
“hết đường tới thăm bạn”. Đoạn đóng cửa lại, bật ngọn đèn đầu giường và đi về
phía sau đun một ấm nước. Giữa đám sách vở, tài liệu bề bộn, cạnh một chỗ nằm
cũng là chỗ ngồi làm việc của ông, trước một khay trà, thật bình dân, không cầu
kỳ như khay trà Vũ Hoàng Chương và những điếu thuốc đen ông đốt theo một nhịp
điệu đều đặn, tôi thường ở rất lâu với Bình Nguyên Lộc. Tới trưa. Tới sau trưa.
Tới cái gạt tàn có ngọn. Tới bình trà nguội tiếp thêm một bình trà. Một vài lần
còn tới giữa bữa cơm ông ấy lấy thêm bát đĩa ép tôi cùng ăn, bữa ăn cực kỳ
thanh đạm, chỉ một soong cơm và một con cá khô hấp nóng. Phải, nhớ lần nào tôi
cũng ở lại thật lâu. Với cái mái tóc rẽ giữa. Với những cử chỉ chậm rãi. Với cặp
mắt thông minh sau làn khói. Với những đứng ngồi lên xuống từ tốn. Trong cái thế
giới rất riêng tây, cách biệt của Bình Nguyên Lộc, càng riêng tây, càng cách biệt
từ cộng sản đã vào tới Sài Gòn.
Những lần tới thăm Bình Nguyên Lộc
như vậy, ông thường nói ít lời như một tạ lỗi, nhờ tôi nói lại với anh em, với
mọi người: “Rằng từ ngày người con trai lớn mất, ông đã chẳng muốn đi đâu. Rằng
chứng áp huyết nặng tối kỵ những di chuyển, những họp mặt. Rằng “họ” đã vào tới
rồi, thành phố là của “họ”, đời sống chẳng còn gì đáng thấy, đóng cửa trong nhà
thôi.”
Lập luận về một thái độ sống thu vào
im lặng và ẩn dật, thoạt nghe ở Bình Nguyên Lộc tưởng thật dễ dàng. Sự thật, nó
chẳng dễ dàng chút nào, với Bình Nguyên Lộc, với chế độ mới và Bình Nguyên Lộc,
suốt thời gian ở đó. Và cái lý do giản dị chỉ là ông chẳng phải là một người viết
văn như bất cứ một người viết văn nào mà là nhà văn hàng đầu, nhà văn lớn nhất
miền Nam.
Bây giờ, đó là thời gian từ 30 tháng
tư 75, tới đầu 76, Trung Ương Đảng Cộng Sản ở Hà Nội, tuy chưa phát động đàn áp
và cầm tù văn nghệ sĩ, đã cho thi hành ở Sài Gòn một chính sách lũng đoạn hàng
ngũ văn nghệ cực kỳ hiểm độc. Chính sách đó nhằm tạo kỳ thị, gây chia rẽ, giữa
những nhà văn miền Bắc vào Nam trong đợt di cư 1954 với những nhà văn sinh trưởng
ở Nam Phần. Suốt ba mươi năm văn học, Nam Bắc đã một nhà, Bắc Nam đã bằng hữu.
Cộng sản muốn chấm dứt cái tình trạng hòa đồng tốt đẹp đó. Và người chúng đã
dành hết mọi nỗ lực khuynh đảo là Bình Nguyên Lộc.
Thoạt đầu là đám văn nghệ nằm vùng.
Như Sơn Nam, Vũ Hạnh. Kế đó, đến nhóm văn nghệ của Mặt Trận Giải Phóng về
thành, tạm thời được nắm giữ những địa vị quan trọng như Trần Bạch Đằng, Giang
Nam, Anh Đức, nhiều kẻ đã quen biết Bình Nguyên Lộc từ xưa. Cuối cùng là đám
nhà văn, nhà thơ công thần của chế độ và vào từ Hà Nội như Nguyễn Công Hoan, Chế
Lan Viên, Nguyễn Đình Thi, Huy Cận. Tất cả, trên từng địa vị khác biệt, đã viết
thư, điện thoại ân cần thăm hỏi tác giả Đò Dọc, về sức khỏe, về đời sống của
ông, nói thân thế ông mãi an toàn, sinh kế vẫn bảo đảm, sự nghiệp không chôn
vùi, ông vẫn nhà văn lớn. Tất cả đã lần lượt đến khu Cô Giang, Cô Bắc, tươi cười,
nhã nhặn gõ cửa xin gặp người trong ngôi nhà có hai chậu vạn niên thanh.
Bình Nguyên Lộc tiếp hết, từ tốn, chững
chạc vậy thôi.
Duy có một lần, không sao được, ông
phải tới dự đại hội văn nghệ thống nhất lần thứ nhất ở Bộ Thông Tin cũ đường
Phan Đình Phùng. Kỳ họp này, Vũ Hạnh, Thanh Nghị báo cáo kể công, Sơn Nam đóng
trò nhiệt tình khóc lóc, riêng Bình Nguyên Lộc ngồi im lặng từ đầu đến cuối,
không chịu phát biểu một lời nào.
Đó là lần đầu tiên, cũng là lần cuối
cùng về sự tiếp xúc của Bình Nguyên Lộc với chế độ mới. Cố nhân quen biết tương
đối thân thiết nhất với anh là Giang Nam, được Thế Lữ ca ngợi là tiếng thơ cách
mạng lớn nhất miền Nam, về Sài Gòn giữ chức vụ Chủ Tịch Hội Văn Nghệ Giải
Phóng, mặc dù đã viết cho Bình Nguyên Lộc một lá thư thật dài, thật tình cảm,
cũng thất bại. Thư mời Bình Nguyên Lộc tới trụ sở Hội. Mời sinh hoạt. Mời hội họp.
Mời viết lại. Và Bình Nguyên Lộc đã nhã nhặn viết một lá thư trả lời. Nói ông rất
đau yếu. Nói bị chứng áp huyết. Nói chẳng còn làm được gì. Nói chẳng thể đi
đâu. Nói xin được yên thân. Cuối cùng rồi mọi ve vuốt, mọi khuynh loát đều chịu
thua, đều lùi bước trước sự nhã nhặn khuớc từ, trước cái nhân cách và sự tự trọng
chói lọi của Bình Nguyên Lộc. Họ đành để cho Bình Nguyên Lộc được cách biệt, được
một mình, được vẫn mãi mãi là Bình Nguyên Lộc trong căn nhà đóng kín.
Nhân cách trí thức độc lập ấy của
Bình Nguyên Lộc, thái độ tuyệt vời của người nhà văn miền Nam ở Bình Nguyên Lộc,
không một lần nào, ông phô trương mà chúng tôi đều biết, cả miền Nam đều biết
và sung sướng vô cùng và quý mến rất mực.
Nhớ Bình Nguyên Lộc ở xa, tin tức quê
nhà đã lâu không nhận được, chẳng biết vẫn còn hay đã mất, những lần sau cùng tới
khu Cô Giang Cô Bắc, hình ảnh hai chậu vạn niên đại xanh ngắt một màu xanh muôn
thuở trước ngôi nhà văn học đóng kín, lại trở về, xanh ngắt trong tôi.
Bình Nguyên Lộc. Cái mái tóc rẽ giữa,
hai miền trung dung phân định như tấm lòng người quân tử một đường ngôi đời thẳng
tắp. Bình Nguyên Lộc, bộ đồ lụa trắng, rất thông phán tòa sứ, rất trăng nước miền
Nam, trên chiếc cyclo đạp chậm đưa ông tới gặp các tòa soạn Nghệ Thuật, Văn, Vấn
Đề chúng tôi làm, phần lớn là anh em nhà văn miền Bắc. Không có Nam Bắc với
Bình Nguyên Lộc, chỉ có văn chương, chỉ có hợp tác, chỉ có bằng hữu. Tôi làm biếng
lắm, ít khi đi đâu, đến chơi tôi nhé. Thân tình, hòa nhã. Cái truyện ngắn này
giục tôi viết gấp, thì phải viết gấp, không được tốt lắm, thôi dùng tạm vậy.
Nhũn nhặn, bình dị. Một năm trong bốn năm liền cùng ở chung trong Hội Đồng Giám
Khảo giải thưởng Văn Chương toàn quốc, ông từ chối nói chứng áp huyết không còn
leo nổi những bực thềm cao của Dinh Độc Lập, cặp mắt đã yếu chẳng thể nào đọc hết
được những tác phẩm dự thi. Nài mãi mới nhận. Nhưng cười, giao hẹn:
–Vậy phải đọc hết giùm tôi, rồi đưa
cho tôi đọc mười cuốn khá nhất.
Nghiêm chỉnh. Ngay thẳng. Năm đó, ông
không vào Dinh Độc Lập được thật. Những bực thềm cao quá cho tài viết hàng đầu.
Rồi là cái công trình Văn Học cuối đời
của Bình Nguyên Lộc. Cuốn Nguồn Gốc Mã Lai Của Dân Tộc Việt Nam đã phác thảo,
đã in thành sách, trọn năm năm trời, tìm kiếm, sưu tập, thu thập thêm một kho
tàng tài liệu mới, đã hoàn tất thành một biên khảo vĩ đại hơn một ngàn trang. Cộng
Sản vào Nam. Thiên biên khảo kỳ công vẫn còn là bản thảo. Một lần tới thăm, tôi
hỏi Bình Nguyên Lộc về công trình văn học đó. Và đó cũng là lần thứ nhất tôi thấy
Bình Nguyên Lộc buồn phiền và thất vọng. Trèo qua cái giường ngủ, ông lấy từ một
giá sách cao xuống một tập bản thảo nặng chĩu, trao nó cho tôi. Giọng ông trào
lộng mà nụ cười thật buồn:
–Nó đây.
Và chỉ tay lên cái giá sách bụi bậm:
–Kia là mồ chôn nó.
Kế đó, ông thuật cho tôi hay về số phận
của thiên biên khảo lịch sử, mà nguồn gốc dân tộc Việt, theo sử quan và chứng
minh Bình Nguyên Lộc, không từ miền Bắc xuống mà từ biển ngoài vào. Một nhóm những
người cao cấp về biên khảo lịch sử của nhà nước cộng sản từ Hà Nội vào, được
nghe nói về công trình biên khảo này của Bình Nguyên Lộc. Họ tới. Tỏ lòng ngưỡng
mộ, rồi xin được mượn tập bản thảo về đọc, nói sẽ có nhận xét, sẽ có thảo luận.
Mấy tuần sau, tập bản thảo được gửi trả lại với một lá thư ngắn nói quan điểm lịch
sử nói chung và nguồn gốc dân tộc nói riêng của Bình Nguyên Lộc hoàn toàn thoái
hóa và sai lầm đối với quan điểm biện chứng duy vật lịch sử cách mạng, khoa học
và tiến bộ.
Thuật lại xong, ông lắc đầu, sự thất
vọng hiện rõ nhưng giọng nói vẫn từ tốn:
–Thế là gạt bỏ, thế là phủ nhận. Nói
là để đối chiếu, để thảo luận, mà không có gì ráo trọi. Tôi buồn vì cái công
trình của mình, nhưng buồn hơn cả là cái sự gạt bỏ của miền Bắc đồi với sách
tôi không phải là một thái độ văn học, không hề được đặt trên căn bản văn học.
Nói đến văn học, tuyệt đối không thể nói đến một lập luận, một giá trị độc tôn
nào. Phải nhiều lập luận khác biệt, phải nhiều khái niệm đối nghịch, một vấn đề
văn học, một nghi vấn lịch sử mới được chiếu sáng. Khoa học lịch sử thiết yếu
phải có được yếu tính và tinh thần đó. Tôi buồn nhất là ở cái sự không có tranh
luận, không có đối thoại ấy mà thôi. Chứ không hoàn toàn vì sách tôi không bao
giờ còn hy vọng được in ra.
Tập bản thảo nghìn trang, mồ chôn là
cái giá sách bụi bặm. Hai chậu vạn niên thanh xanh ngắt một màu xanh muôn thuở.
Trí thức dựng cao lũy hoa. Một nhân cách chói lòa trong tự trọng một đời, đã
tám năm im lặng trong ngôi nhà đóng kín. Chẳng bao giờ tôi còn được sáng sáng tới
thăm Bình Nguyên Lộc nữa và Vũ Hoàng Chương đã mất. Nhưng ở thật xa và cách thật
lâu rồi mà rõ thì vẫn thật rõ. Về Bình Nguyên Lộc, nhà văn miền Nam hàng đầu của
văn học ta rõ bởi cái ánh sáng ấy, cái ánh sáng của một nhân cách rực rỡ, tôi
đã nhìn thấy không ngừng, sau đổi đời và giữa cộng sản, sáng sáng đạp xe qua một
Sài Gòn đổi chủ ngừng xe lại trước nhà có hai chậu vạn niên thanh.
Mai Thảo
Nguồn: Ebook Văn Học Miền Nam

No comments:
Post a Comment