ĐẶNG THẾ PHONG
Đặng
Thế Phong là một trong những nhạc sĩ tiền phong của chúng ta. Ông mất rất sớm,
mới ngoài hai mươi tuổi. Ông chỉ để lại có ba bản nhạc.
Cũng
có người cho rằng ông có tới bốn hay năm bài. Nhưng thực tế, không ai biết cái
bài thứ tư, thứ năm đó. Vậy chỉ nên coi những bài mọi người đều đã biết: Giọt
Mưa Thu, Con Thuyền Không Bến và Đêm Thu,
chính thức là những tác phẩm của ông.
Những
người đồng thời với Đặng Thế Phong kể lại rằng ông thời với Đặng Thế Phong kể lại
rằng ông muốn trở thành họa sĩ chứ không phải nhạc sĩ.
Cũng
như Nhất Linh, Đặng Thế Phong đã thi vào trường Mỹ Thuật Đông Dương ở Hà Nội,
nhưng rồi bỏ dở ý định theo đuổi hội họa.
Và
cái việc Đặng Thế Phong thi vào trường Mỹ Thuật ấy, đã để lại một huyền thoại.
Nghe nói ông đã vẽ một thân cây cụt (không có ngọn), rất đẹp. Vị giáo sư người
Pháp chấm bài, khen ngợi, nhưng nói rằng: “E Đặng Thế Phong không sống lâu được.”
Nhớ,
xa hơn nữa, các cụ ta cũng truyền lại rằng, một học giả Trung Hoa, sau khi đọc
xong Chinh Phụ Ngâm của Đặng Trần Côn, đã nói: “Người này nhiều
lắm 5 năm nữa sẽ chết, vì tinh hoa trút hết ra cả đây rồi”.
Cả
hai sự tiên liệu đều đúng.
Như
thế, cả Tây lẫn Tàu đều trông vật mà biết bệnh? Hay đó chỉ là điều giản dị như
Shakespeare đã nói “trái nào chín trước nhất thì rụng trước hết?”
Ba
ca khúc của Đặng Thế Phong được viết vào những ngày nền tân nhạc của chúng ta
khởi đầu, và đều là những tình khúc.
Và
tình khúc Đặng Thế Phong, ngay từ những ngày xa xôi ấy, đã có một tầm vóc khác:
Biết
đâu bờ bến
Thuyền
ơi thuyền trôi nơi đâu
Trên
con sông Thương nào ai biết nông sâu
Nhớ
khi chiều sương
Cùng
ai trắc ẩn tấm lòng
Dứt
bao tình thương
Thuyền
mơ buông trôi theo dòng
Bến
mơ dù thiết tha
Thuyền
ơi đừng chờ mong
Trong
ngần ấy lời ca chữ nào nói đến tình yêu, chữ nào không? Hình như không phải chỉ
là con thuyền buông trôi theo dòng mà có cả kiếp người trôi trong dòng đời, cái
có thật và cái tưởng tượng đều lẩn khuất sau một màn sương, chúng ta nhìn nhau
với lòng trắc ẩn, hạnh phúc khó khăn hay chỉ sống không thôi đã là một điều khó
khăn, “bến mơ dù thiết tha, thuyền ơi đừng chờ mong”, chúng ta chẳng thể nào tới
được nơi mong ước cũng không biết đã ra đi từ đâu:
Thu
xưa xa xăm ngoài chân mây
Thu
nay bơ vơ thuyền trôi đây
Phải
chăng thuyền nhớ nơi non bồng
Nơi
đã bao phen chùng tơ lòng…
Con
sông nào chẳng có hai bờ, nhưng bờ có phải là bến không?
Nghe
nhạc Đặng Thế Phong là nghe lấy những tiếng ở giữa chừng đời sống ấy, tiếng va
chạm của cái chốn xa xăm ngoài chân mây với cái cõi bơ vơ thuyền trôi đây.
Người
ta không hiểu sao ở ngưỡng cửa của tuổi hai mươi Đặng Thế Phong đã nghe ra cái
tiếng nhân thế bao la sầu như ông viết trong Giọt Mưa Thu:
Hồn
thu tới nơi đây gieo buồn lây
Phòng
vắng bốn bề không liếp che gió về
Ai
nức nở thương đời châu buông mau
Dương
thế bao la sầu…
Nghe
nói khi mới viết xong ca khúc này Đặng Thế Phong đã đặt tên là Vạn Cổ Sầu rồi
sau đó mới đổi thành Giọt Mưa Thu.
Cả
ba ca khúc Đặng Thế Phong để lại cho đời đều là những bản thu ca.
Điều
này nữa có phải cũng là một báo hiệu cái mùa đông sửa đang đón đợi ông?
Lấy
những cái đã xẩy ra rồi để giải thích sự việc, người ta thường tìm cách ráp sao
cho ăn khớp, điều ấy dễ thôi. Nhưng quả thật nghe lại nhạc Đặng Thế Phong,
chúng ta sẽ thấy, chỉ cái mùa vạn vật dường như đắm một nữa trong mộng ấy, mới
thích hợp với tâm hồn ông.
Tất
cả các lời ca của Đặng Thế Phong đều long lanh sáng. Nhưng chúng không sáng cái
ánh sáng của mặt trời, mà sáng cái sáng của lân tinh, của ánh trăng. Cái buồn
trong nhạc của Đặng Thế Phong còn có thêm một cái buồn lây của đóa hoa đứng im
như mắc buồn, nỗi buồn đọng lại hay mùa đông buồn trong ánh sao, cả ba cách
dùng đều có nghĩa.
Cũng
nên nói thêm là gần đây, những bài hát gọi chung là tiền chiến, được thu thanh ở
cả trong lẫn ngoài nước, có đến chín phần mười sai. Sai cả nhạc lẫn lời. Nói
sai là căn cứ vào những gì đã được in ra, phổ biến trước đây.
Trường
hợp chính tác giả viết lại thì đành chịu, không thể nói là sai được.
Trở
lại với Đặng Thế Phong.
Ông
đã bỏ không đặt tên ca khúc của mình là Vạn Cổ Sầu.
Nhưng
ông đã để lại nỗi sầu ấy cho chúng ta và có lẽ cho cả những người sau này nữa.
Cái
chết của Đặng Thế Phong, cái chết của Nguyễn Nhược Pháp, của Thạch Lam, cho đến
bây giờ, nhớ lại, nghe nhắc lại, chúng ta vẫn chưa hết ngẩn ngơ, vì không muốn
tin, không tin được đó là sự thật, những bậc tài hoa như thế, tiếc thay tài sao
đành lỡ làng (Dương Thiệu Tước).
Chúng
ta tiếc vì nghĩ rằng, nếu những người ấy không chết yểu như vậy, chắc chúng ta
còn được thưởng thức thêm nhiều tác phẩm. Có đúng như vậy không?
Giả
thử ước muốn của chúng ta có thể trở thành sự thật thì những cuộc sống thêm ấy
sẽ là bao lâu?
Chính
xác là bao lâu sẽ vừa với ước muốn của chúng ta?
Và,
liệu chính những người ấy, có ưng vậy chăng?
Nguyễn
Đình Toàn
Quận
Cam, California.
(Trích
Khởi Hành)
Nhà văn Nguyễn Đình Toàn sinh năm 1936
tại Hà Nội, tị nạn Cộng Sản lần thứ nhất năm 1954; trước 1975 làm việc tại Đài
Phát Thanh Sài Gòn, nổi tiếng với chương trình Nhạc Chủ Đề trên đài này, trong
khi cộng tác với các tạp chí văn học bằng các truyện ngắn, và thơ. Năm 1998 ông
tị nạn Cộng Sản lần thứ hai, qua Hoa Kỳ và trở lại hoạt động mạnh trong lãnh vực
âm nhạc, cho thực hiện hai cuốn CD ngay khi phát hành đã được đón nhận nồng nhiệt:
Hiên Cúc Vàng với chỉ một giọng ca Khánh Ly, và Tình Ca Việt Nam với Duy Trác,
Khánh Ly, Sĩ Phú, Thái Thanh, Võ Anh Tuấn, Lệ Thu. Tác phẩm văn chương của ông
có thể kể: Chị Em Hải, 1961, tác phẩm đầu tay, nhật báo Tự Do xuất bản, Những Kẻ
Đứng Bên Lề, 1964, Con Đường, 1967, Ngày Tháng, 1968, Đêm Hè, 1970, Giờ Ra
Chơi, 1970. Không Một Ai, 1971, Thành Phố, 1971, Tro Than, 1972. Năm 1973 Nguyễn
Đình Toàn được trao giải Văn Học Nghệ Thuật Toàn Quốc (VNCH) bộ môn truyện, với
tác phẩm Áo Mơ Phai. Ông và gia đình hiện cư ngụ tại thành phố Westminster,
California.

No comments:
Post a Comment