Saturday, July 5, 2025

Cũng Đành - Thuyên Huy

 

Cũng Đành

Chuyện kiếp nghèo tưởng tượng , kiếp nghèo của một người có thật




1.

 

     Anh tư Lậy bỏ cuốc xuống cái bờ đê ngăn đôi miếng ruộng còi, chừng hai mẫu đất, mướn của ông chủ điền ở Trâm Vàng từ ngày vợ anh, chị Búp, sinh ra thằng Bon, đứa con đầu lòng tới bây giờ, vừa hơn bốn tuổi. Nắng giữa trưa nóng cháy người, mặc dù ngoài đồng lúc nào cũng có gió, kéo cái áo thung rách tả tơi lên lau mồ hôi, ngồi bệt xuống nghỉ tay bên mấy cây bình bác sai trái. Anh mở mo cau đựng mớ cơm nguội và hai ba con cá khô ra, bốc ăn vội vã, để còn kịp làm xong phần đất khô nứt, trước khi mưa xuống.

*

    Đám ruộng không tốt, chỉ cấy được hai phần ba, vợ chồng ráng dành dụm chắt chiu, làm thuê làm mướn, từ ngày lấy nhau trên Dầu Tiếng, bỏ về Trà Cao, mướn với giá rẻ, hy vọng có ngày dễ thở hơn. Năm năm rồi, tay chân chai cứng, sớm nắng chiều mưa vẫn không đủ cho ba miệng ăn, bữa no bữa đói, tội nghiệp cho thằng Bon, miệt mài uống nước cơm thay sữa. Năm nào thất mùa, dù người chủ thông cảm, giảm bớt số lúa trả, nợ nần ngập đầu, hẹn lần hẹn lựa. Chị Búp, cắn răng cam chịu, phụ chồng đầu tắt mặt tối, anh Lậy thương vợ xấu số, lấy chồng cùng đinh, một thân dãi dầu mưa nắng, không từ nặng nhẹ. Chữ nghĩa học lóm người, cha mẹ mất sớm, đi chăn trâu, không đầy nắm tay, anh Lậy cũng ráng dạy con tập đánh vần, trong ước mơ thấy con đến trường làng một ngày nào đó.

    Cuối mùa gặt, lại mất mùa, lúa đập được không đủ trả, hai vợ chồng dẫn con, đón xe đi Trâm Vàng, xin chủ ruộng thương tình cho khất số lúa tới năm sau. Đứng chờ xe lam về Trà Cao, chị Búp mằn mò mấy chục đồng bạc trong túi áo lót, mua cho thằng Bon, nửa ổ bánh mì chiều có cá mòi đỏ, chị sung sướng hôn con, ngồi đại xuống lề, con đường trải nhựa đen giữa chợ quận, mặc thiên hạ lại qua, thằng nhỏ nuốt nước miếng, ngấu nghiến ăn ngon lành.

*

    Anh Lậy từ ruộng về, tay xách cái đục tre với vài ba con cá rô nhỏ xíu, thằng Bon chạy lăng xăng ra đón. Anh cho nó con cá lia thia xanh đen, cái trò chơi duy nhất mà nó có. Khói lam cơm chiều, quyện lửng lơ trên dăm ba mái tranh, lác đác xa xa ngoài đồng vắng. Ở đây nhà trong ấp, gần nhau ít nhất cũng vài bờ đê ruộng. Trời tối, nhìn con nằm ngủ trong cái vỏng bằng vải bố rách bương, nhìn mái nhà tranh ủ dột, tấm liếp tre che cửa, trống trước hụt sau, tiếng chị Búp thở dài não nuột, không thua gì tiếng ểnh ương gọi mưa trong đêm lạnh. Anh Lậy trăn trở, xót xa nghe.

*

    Xuống xe đò, tại ngõ vào cổng chánh Tòa Thánh, anh Lậy ôm cái túi xách bằng dây lác đi trước, chị Búp dắt con theo sau, cả hai tìm ngay đến văn phòng Chánh Đầu Sư, người giữ nhiệm vụ cai quản Cô Nhi Viện. Thằng Bon, ngây ngô chạy nhảy tung tăng trên nền gạch bông đủ màu bóng láng. Hai vợ chồng rưng rưng nước mắt, ký tờ giấy cho con, Ông Chánh Đầu Sư không cầm được lòng, gở cặp mắt kiếng già ra, lau ngấn lệ. Thằng Bon theo ba người lớn qua nhà chơi, thấy đám con nít trang lứa đùa giởn ồn ào, la hét, chạy vào nhập bọn, quên hẳn cả cha mẹ. Hai vợ chồng ở lại đó cho tới giờ ăn chiều, rồi từ giã ông Chánh Đầu Sư lặng lẽ bỏ con trốn đi, thằng Bon chưa biết gì, cứ mải mê vui chơi. Chị Búp khóc vật vã, trên chuyến xe chiều về Gò Dầu Hạ, anh Lậy cắn chặt vành nón vải, rách tả tơi, cỏi lòng tan nát.

*

    Mùa nước tới, đám ruộng vợ chồng anh Lậy, không thấy ai làm đất, cỏ hoang mọc cao đến dầu gối. Cái chòi tranh, mái dột cột xiêu chừng như muốn ngã theo tấm liếp dừa che cửa, đánh qua đập lại khi trời nổi gió. Dãy mồng tơi úa vàng, lặng lẽ phơi mình bên sàn nước ọp ẹp. Anh Lậy không còn ở đó, không lâu sau ngày dân ấp bắt đầu gieo mạ. Vợ chồng, hai ba cái túi xách, một vài cái túi mang cùng mấy trăm đồng bạc, trả lại miếng ruộng, bỏ Trà Cao đi trong một ngày mưa tầm mưa tả. Hàng bình bác sai trái, ửng vàng chín rộ bên bụi chuối hột buồn thiu, chị Búp kéo tấm ni-lông, nhặt từ bao phân bón nào đó, cất làm áo mưa, che vội che vàng trên đầu, anh Lậy đi sau, mặc tình cho nước tuôn xối xả.

 

2.

    Xế chiều, mây đen bỗng chợt kéo về, làm mặt trời tưởng như hôm nay lặn sớm. Bắt ghế ngồi trước hiên nhà, nhìn ra sân, hàng rào cây sa-bô-chê che khuất đường, nếu không có cái cổng sắt mở rộng, chắc ông năm Nhân chẳng thấy được đám xe cộ dập dìu, ra chợ mới. Căn biệt thự, kín cổng cao tường càng ngày càng quạnh vắng, đôi lúc, ông năm, trước kia làm hiệu trưởng trường tiểu học thời Tây, rồi thời ông Diệm, nay hưu trí, người quen trong tỉnh gọi ông là "ông Đốc Nhân", muốn bàn với vợ, bà Đốc Nhân, người vui tính, phúc hậu, thường hay giúp bà con chòm xóm, kiếm bậy đứa con nuôi về ở cho vui tuổi già.

    Ông bà Đốc Nhân có ba người con, hai anh trai lớn du học bên Pháp, rồi ở lập nghiệp luôn bên đó, cô con gái út, lấy chồng giàu có dưới Long Xuyên, mỗi năm về thăm một lần trong dịp tết. Đi lên nhà trên, đi xuống nhà dưới, đâu đó trống trỏi, có hôm cơm nước cũng chẳng cần ăn, chiều chiều hai ông bà không biết làm gì khác hơn là ngồi ngoài sân, nhìn trời hiu quạnh.

*

    Sau tết ta, ông bà Đốc Nhân, trên đường đi cúng lễ chùa trong Trí Huệ cung về, ghé vào cô nhi viện, gặp ông Chánh Đầu Sư, hỏi thăm chuyện xin con nuôi. Thằng Bon bây giờ được sáu tuổi, đứng xớ rớ ngoài sân một mình, lấm lét nhìn. Ông bà tự dưng thấy thằng nhỏ tội nghiệp, trông nó cũng dễ thương nên ngỏ ý với ông Chánh Đầu Sư, ông kêu thằng Bon lại, đứng gần hai người, khoanh tay cúi đầu chào, rồi cho ông bà biết sơ câu chuyện. Bà Đốc Nhân vò đầu, vuốt tay, thằng Bon cười tủm tỉm. Ông bà Đốc Nhân trở lại cô nhi viện dăm ba lần sau đó, cuối cùng quyết định xin thằng Bon làm con.

    Sáng thứ bảy, bà Đốc thức dậy thật sớm, cẩn thận xếp bộ quần áo mới, mua ngoài chợ mấy ngày trước cho thằng Bon và hộp bánh tây lạt thơm phức mùi bơ, vào túi xách, pha tách nước trà đậm nóng, ngồi nhìn ra cửa sổ, chờ sáng. Ông Đốc ngủ cũng không yên, rục rịch thức theo. Con sáo hoang xoảy đôi cánh ướt mềm sương sớm trên bực thềm đá ngoài sân, bên gốc cây mai già, tết qua rồi mà hoa vẫn còn vàng hực. Tách trà vừa nguội, xe cộ bắt đầu rộn rã ngoài đường, ông quơ cái nón nỉ đội lên đầu, bà sửa lại chiếc khăn lụa quàng cổ, đóng cổng rào. Sương đêm tan dần ở cuối đường, trời đã có chút nắng.

    Thằng Bon lùng thùng trong bộ quần áo mới tinh, ôm hộp bánh tây chạy qua chạy lại, lăng xăng nói năng với mấy đứa bạn cùng tuổi, rồi đến vòng tay chào ông Chánh Đầu Sư và người đàn bà phụ việc, đứng chờ. Ông bà Đốc chậm rải ra đường, thằng Bon lững thững đi sau, thỉnh thoảng quay đầu nhìn lại, đám bạn mồ côi ngoài hành lang không còn ai đó nữa.

*

    Nhà bây giờ có ánh đèn khuya, thằng Bon không lâu, đã đọc chữ làu làu, thuộc cửu chương ngược xuôi xuôi ngược, ông bà Đốc đi đâu nó cũng đòi theo, dạ thưa quấn quýt. Vào lớp năm, chưa đầy nửa năm, cô giáo cho lên lớp khác, ai cũng nể nang, một hai gì cũng con ông Đốc học. Bon dễ dạy, không thấy bị rầy rà chuyện gì, ham đọc sách, ôn bài. Lúp xúp loanh quanh phụ ông Đốc nhổ cỏ, quét lá trong vườn quanh năm suốt tháng.  Buổi chiều nào ông bà cũng đứng ngoài cổng rào, chờ thằng Bon về  mỗi khi nghe tiếng chuông tan học reo lên, từ sân trường tiểu học tỉnh.

 

3.

 

    Vợ chồng anh tư Lậy, từ Đồng Cò lên cô nhi viện Tòa Thánh tìm con, ở đây cho biết Bon đã được nhận làm con nuôi mấy năm nay, họ viết cho địa chỉ nhà ông bà Đốc Nhân ngoài phố tỉnh. Hai người cầm tấm giấy, đón xe lôi máy ra chợ. Anh Lậy đứng ngập ngừng trước cổng nhà, một hồi lâu mới đập vào cánh cửa sắt gọi, chị Búp lặng thinh sau lưng chồng. Bon, đang ngồi hóng mát dưới bóng cây sa-bô-chê cuối sân, nghe tiếng kêu ngoài cổng, chạy vụt ra, thấy người lạ, cúi đầu chào, bỏ đi vào trong gọi ơi ới:

- Má ơi có khách

Bà Đốc Nhân, sửa lại vạt áo ngắn, vuốt sơ mấy sợi tóc trắng phao trước trán, theo Bon đi ra. Vợ chồng anh Lậy đứng yên một chỗ, nhìn thằng Bon không chớp mắt. Bà Đốc thấy người lạ, sợ là tìm lộn nhà, nên chậm rãi hỏ:

- Hai cháu muốn tìm ai?

Chị Búp giành lấy tờ giấy trong tay chồng, ấp úng:

- Dạ phải đây là nhà của ông Đốc không?

Bà Đốc gật đầu, kêu Bon mở cửa rộng ra

- Tôi là bà Đốc Nhân, hai cháu có chuyện gì không, thôi mời vô nhà rồi nói gì thì nói. Bà quay vào, Bon bỏ chạy trước, đứng ngay bực thềm đá chờ, vợ chồng anh Lậy khép nép theo sau.

*

Ông Đốc từ trong bước ra mời ngồi, bà Đốc xuống nhà sau, Bon phụ bưng nước lên rồi cầm cuốn sách Tập Đọc Vui ra sân. Ông Đốc Nhân lập lại lời vợ hỏi:

- Vậy hai cháu tìm tôi có chuyện gì?

Anh Lậy kéo tờ giấy cho con, ngã màu vàng nâu bèo nhèo trong túi áo ra, đưa cho ông Đốc, rưng rưng nước mắt kể chuyện đói nghèo, thương con vô tội chịu cảnh bần cùng, nên đành phải bỏ con vào cô nhi viện, chị Búp nức nở khóc sướt mướt theo. Ông bà ngồi nghe cũng bùi ngùi, tội nghiệp. Bà Đốc kêu thằng Bon vô, nó đứng kế bên ghế ông Đốc, không hiểu gì, ngơ ngác nhìn qua nhìn lại. Anh ngưng câu chuyện, ngước lên, Bon mở tròn xoe mắt. Bà Đốc nắm tay Bon, kéo đứng sát vào bà, ngó chị Búp thông cảm:

- Thằng Bon đây, dù sao cũng là con ruột của hai cháu.

Bà quay qua Bon, chỉ tay về phía anh Lậy, giọng rung rung:

- Bon con, ba má ruột của con đó, thưa ba má đi.

Bon nghe nói, chẳng biết ất giáp gì, cũng cúi đầu:

- Thưa ba má!

    Ông bà Đốc nghe Bon nói tiếng chào, rươm ruớm nước mắt. Vợ chồng anh Lậy, ngồi chết trân, nửa muốn ôm lấy con, nửa ngại ngùng không dám. Ông Đốc Nhân xót xa đứng dậy, nhìn bà Đốc nói:

- Thôi để cho hai cháu nói chuyện với thằng Bon, vợ chồng tôi vô trong, có cần gì thì hô lên một tiếng.

Bà Đốc bước theo sau, vò đầu Bon:

- Ở đây chơi với ba má ruột con nghe, nhớ giỏi nghe Bon.

Chập sau ông bà Đốc trở lên nhà trên lại, Bon ngồi im lìm trên ghế, ông Đốc bảo Bon ra ngoài chơi, Bon vòng tay chào rồi chạy ùa đi, chị Búp vói theo:

- Bon coi chừng té!

- Bây giờ hai cháu tính sao? Ông Đốc sửa gọng kiếng trên mặt nhìn vợ chồng anh Lậy hỏi.

Lần này chị Búp lên tiếng, giọng bùi ngùi:

- Vì quá nghèo nên phải cắn lòng bỏ con, bỏ mà đứt từng khúc ruột, mong có ngày khá hơn, xin nhận nó về, hai vợ chồng cháu xin ông bà thương tình cho phép tụi cháu đem thằng Bon về, công nuôi dưỡng của ông bà, bấy lâu nay, tụi cháu xin ông bà nhận nơi đây mấy lạy, đáp đền ơn sâu nghĩa nặng.

*

Vợ chồng anh Lậy, quỳ bẹp xuống nền gạch bông, xá tay cúi đầu vái lạy. Bà Đốc vội vàng, nắm lấy tay chị Búp kéo lên.

Ông Đốc, gở cặp mắt kiếng xuống, đôi mắt đỏ hoe:

- Ba năm nay, trong nhà có nó, vợ chồng cũng vui, nó ngoan, dễ dạy lại học giỏi, nhưng dù sao hai cháu là ba má ruột, có công lặn lội đến đây, không còn nó tụi tôi cũng buồn, nuôi thì mến tay mến chân. Nhưng biết làm sao hơn, con của hai cháu thì trả lại cho hai cháu...

Ông ngừng ngang đó, đưa tay quẹt nước mắt, bà Đốc thổn thức tiếp lời:

- Hai cháu yên tâm, tụi tôi không giành giựt gì đâu, nói chắc nó cũng hiểu thôi, tôi mong là sau khi đem nó về, nhớ cho nó đi học tiếp, nó học giỏi lắm, ham học nữa, bỏ uổng lắm.

*

    Anh Lậy chấp tay xá thêm mấy cái, nghẹn lời không nói được tiếng nào. Bà Đốc đưa cho vợ chồng anh Lậy, cái túi xách đựng đầy quần aó, giày dép của thằng Bon cùng sách vở. Thằng Bon khóc rấm rứt, ông bà Đốc khóc theo, bà trao cho chị Búp một số tiền, gọi là cho thằng Bon ăn bánh. Ông bà tiễn vợ chồng anh Lậy ra tới cổng, ông Đốc Nhân ôm Bon vào lòng khuyên lơn, bảo nó về ba má chơi vài hôm ông bà sẽ xuống thăm. Chiếc xe lôi máy chạy khuất cuối dốc đường Võ Tánh rồi, ông bà Đốc vẫn chưa chịu vào nhà, trời giữa trưa nắng chang chang đổ.

 

4.

    Lập đông, gió heo may hiu hiu thổi, lá uá phủ rục cả góc vườn sau, lâu rồi không ai hốt. Thằng Bon đi rồi, ông bà Đốc buồn không biết là bao nhiêu, căn nhà dường như vắng vẻ hơn khi không có nó, sáng sớm bà Đốc thôi không còn nhóm lửa ngoài sân, thui thủi một mình nhìn sương lạnh. Chiều về ông Đốc se thắt lòng già, nghe tiếng chuông tan học reo vang nhưng cánh cổng sắt nặng nề không thấy mở. Tiếng đám bạn nhỏ cùng lớp gọi Bon hởi Bon ơi ngoài đường, vọng lồng lộng vô nhà nghe buồn da diết. Ông bà không nghĩ đến chuyện xin con nuôi lần nữa, sợ phải lâm vào cảnh vừa qua. Bà Đốc nhấp hớp trà nóng, ngó mông lung qua khung cửa sổ, buổi sáng trời mù mờ sương, bà chợt thấy chạnh lòng, không biết thằng Bon ở dưới có lạnh. Cái cổng sắt nhà ông Đốc Nhân ít khi mở từ những ngày đông năm sau.

Thuyên Huy

 

 

 

 

No comments: