Friday, November 21, 2025

Cổ Kính - Tàn Y - Lê Vĩnh Húy

 

Cổ kính – Tàn y

Đây là chữ dùng trong bài thơ “Khóc Bằng phi” nổi tiếng, được cho là của vua Tự Đức. Mỗi lần đọc lên, nhất là cặp luận, với đôi danh từ Hán Việt đối nhau chan chát nghe thiệt sang lỗ miệng:

Lê Vĩnh Húy

 


Đập cổ kính ra tìm lấy bóng

Xếp tàn y lại để dành hơi

Theo đó thì Cổ kính 古鏡 là danh từ, chỉ cái gương soi đời xưa (không phải tính từ với nghĩa “già dặn, cứng mạnh” 古勁, thường dùng cho kiến trúc).

Còn chữ Tàn y 殘衣 dễ khiến người ta cho là cái áo rách nát. Không lẽ đường đường một bà phi (cứ cho là Tự Đức có bà phi tên Bằng phi) lại mặc áo rách? Nên có người giải nghĩa “tàn” nghĩa là “còn sót lại”, như Tàn bôi là chung rượu thừa sót lại khi mãn tiệc; Tàn dạ là buổi cuối của đêm, lúc trời sắp sáng; Tàn đông là chút lạnh cuối mùa đông, v.v… Nhưng có giải nghĩa cỡ nào thì chữ Tàn y ở đây cũng gợi lên hình ảnh tấm áo không lành lặn.

Thành thử có người đưa ra giả thiết đây vốn thơ của Ôn Như hầu Nguyễn Gia Thiều:

Đập mảnh gương ra tìm lấy bóng

Xếp manh áo lại để dành hơi

Vậy là đã thay được cặp danh từ Hán Việt khua rổn rảng chướng khí kia, khiến lời thơ thanh thoát hơn.

Nhưng vấn đề ở chỗ tấm gương manh áo lại là vật thiết thân, người đã khuất vẫn dùng hàng ngày.

Nói về gương trước đã: Ôn Như hầu sống vào cuối thế kỷ 18, vua Tự Đức vào thế kỷ 19, hồi đó ở nước ta chỉ nhà quyền quý sang cả mới xài gương; không phải gương tráng thủy (hễ đập là miểng văng tung tóe), mà là gương bằng đồng. Đây là thứ ngày nay cực hiếm, chơi đồ cổ mà gặp cái gương đồng thì chắc chắn là đồ do tụi đào trộm mộ cổ moi lên. Do bởi người ta luôn soi gương hàng ngày, nhất là phụ nữ đẹp, nên thời xưa tối kỵ giữ lại thứ nầy sau khi người đà khuất bóng, nên thường phải chôn theo luôn. Muốn đập tấm gương đồng cũng không dễ: nó dày ít ra cũng cỡ một phân.

Cái áo cũng vậy, thường được chôn theo người đã khuất, có chừa lại cũng là manh áo lành lặn, sạch sẽ; và thỉnh thoảng phải đem xông hương để tránh mối mọt, chứ không thể ủ đó “để dành hơi”.

Nói tóm lại, hai câu thơ nầy về tình thì bù lu bù loa, cứ như phô diễn nỗi đau; về chữ dùng thì có phần gượng ép.

Vậy nó ở đâu ra?

* * *

Tôi đọc thấy thơ Vu Khiêm (1398-1457), danh tướng nhà Minh, còn lại khoảng 30 bài, trong đó hơn phân nửa đã là thơ khóc vợ.

Năm 20 tuổi, Binh bộ Hữu thị lang Vu Khiêm cưới nàng Đổng thị (không rõ tên) mới 18, con nhà trâm anh. Cưới nhau xong, để vợ lại quê nhà Hàng Châu, ông làm Tuần án đi thị sát Hà Nam và Sơn Tây. Rồi vì chức trách, ông đi biền biệt khắp nơi. Mãi 12 năm sau, Vu Khiêm mới được về kinh, rước vợ con lên ở chung. Tiếng là vậy, song đôi lứa cứ như vợ chồng Ngâu, vì công vụ liên miên, ông nào được rảnh để ở nhà. Tuy vậy vợ chồng vẫn tin thư qua lại không ngớt. Trong thơ ông làm tặng vợ thường thấy nỗi day dứt vì không tròn bổn phận làm chồng.

Ăn ở với nhau 28 năm, có hai mặt con đủ trai gái thì Đổng thị mất. Từ đó ông không tục huyền, ở vậy luôn mười một năm cho tới bị xử trảm.

Trong thơ Vu Khiêm khóc vợ, Điệu nội Thập nhất 內十一首 (Mười một bài Thương tiếc vợ), bài thứ tư có hai câu vầy:

破鏡已分鸞鳳影 Phá kính dĩ phân loan phượng ảnh

遺衣空帶麝蘭香 Di y không đới xạ lan hương

(Tấm gương đã vỡ khiến chia cắt hình bóng đôi chim loan phượng; Khiến manh áo chừa lại chỉ còn mùi lan xạ suông).

“Phá kính” là tấm gương bị bể ra. “Gương vỡ lại lành” là điển tích vợ chồng sum họp, còn ở đây gương vỡ không lành khiến loan phượng không còn soi chung bóng, là nói tình nghĩa vợ chồng từ nay đành âm dương cách biệt.

“Di y” là manh áo chừa lại, không nỡ chôn theo, để dành cho đỡ nhớ. Áo đó giờ đem ra xông hương lại thêm buồn, vì mỗi lần xông thì mùi lan xạ lại càng làm phai mất hơi vợ.

Tứ thơ nầy hoàn toàn trùng khớp với hai câu thơ Tự Đức, tới nỗi nếu ông sinh sau, ta có thể khẳng định là Vu Khiêm đạo thi. Nhưng ông lại sinh trước, vậy chẳng lẽ Ôn Như hầu hay vua Tự Đức ăn cắp thơ Vu Khiêm?

Tôi không nghĩ vậy.

Đập cổ kính ra tìm lấy bóng

Xếp tàn y lại để dành hơi

Đây chỉ có thể là ai đó dịch thơ Vu Khiêm ra chữ Nôm, rồi nhét vô miệng Tự Đức (hoặc Nguyễn Gia Thiều). Nhưng dịch vụng về, không hiểu nghĩa chữ. “Phá kính” là danh từ, chỉ tấm gương đã vỡ, lại hiểu thành động từ là “đập phá” (đập vỡ cái gương ra). “Di y” là manh áo chừa lại, thì hiểu thành manh áo cũ nát. Cả Ôn Như hầu lẫn vua Tự Đức đều tinh thâm Hán học, không thể tệ tới nỗi đọc tác thành tộ kiểu vậy.

Lê Vĩnh Húy

 

 

No comments: