Cổ kính –
Tàn y
Đây là chữ dùng trong bài thơ “Khóc Bằng phi” nổi tiếng,
được cho là của vua Tự Đức. Mỗi lần đọc lên, nhất là cặp luận, với đôi danh từ
Hán Việt đối nhau chan chát nghe thiệt sang lỗ miệng:
Lê Vĩnh Húy
Đập cổ kính ra tìm lấy bóng
Xếp tàn y lại để dành hơi
Theo đó thì Cổ kính 古鏡 là danh từ, chỉ cái gương soi đời xưa (không phải tính từ với
nghĩa “già dặn, cứng mạnh” 古勁, thường dùng cho kiến trúc).
Còn chữ Tàn y 殘衣 dễ khiến người ta cho là cái áo rách nát. Không lẽ đường đường
một bà phi (cứ cho là Tự Đức có bà phi tên Bằng phi) lại mặc áo rách? Nên có
người giải nghĩa “tàn” nghĩa là “còn sót lại”, như Tàn bôi là chung rượu thừa
sót lại khi mãn tiệc; Tàn dạ là buổi cuối của đêm, lúc trời sắp sáng; Tàn đông
là chút lạnh cuối mùa đông, v.v… Nhưng có giải nghĩa cỡ nào thì chữ Tàn y ở đây
cũng gợi lên hình ảnh tấm áo không lành lặn.
Thành thử có người đưa ra giả thiết
đây vốn thơ của Ôn Như hầu Nguyễn Gia Thiều:
Đập mảnh gương ra tìm lấy bóng
Xếp manh áo lại để dành hơi
Vậy là đã thay được cặp danh từ Hán
Việt khua rổn rảng chướng khí kia, khiến lời thơ thanh thoát hơn.
Nhưng vấn đề ở chỗ tấm gương manh áo
lại là vật thiết thân, người đã khuất vẫn dùng hàng ngày.
Nói về gương trước đã: Ôn Như hầu sống
vào cuối thế kỷ 18, vua Tự Đức vào thế kỷ 19, hồi đó ở nước ta chỉ nhà quyền
quý sang cả mới xài gương; không phải gương tráng thủy (hễ đập là miểng văng
tung tóe), mà là gương bằng đồng. Đây là thứ ngày nay cực hiếm, chơi đồ cổ mà gặp
cái gương đồng thì chắc chắn là đồ do tụi đào trộm mộ cổ moi lên. Do bởi người
ta luôn soi gương hàng ngày, nhất là phụ nữ đẹp, nên thời xưa tối kỵ giữ lại thứ
nầy sau khi người đà khuất bóng, nên thường phải chôn theo luôn. Muốn đập tấm
gương đồng cũng không dễ: nó dày ít ra cũng cỡ một phân.
Cái áo cũng vậy, thường được chôn
theo người đã khuất, có chừa lại cũng là manh áo lành lặn, sạch sẽ; và thỉnh
thoảng phải đem xông hương để tránh mối mọt, chứ không thể ủ đó “để dành hơi”.
Nói tóm lại, hai câu thơ nầy về tình
thì bù lu bù loa, cứ như phô diễn nỗi đau; về chữ dùng thì có phần gượng ép.
Vậy nó ở đâu ra?
* * *
Tôi đọc thấy thơ Vu Khiêm
(1398-1457), danh tướng nhà Minh, còn lại khoảng 30 bài, trong đó hơn phân nửa
đã là thơ khóc vợ.
Năm 20 tuổi, Binh bộ Hữu thị lang Vu
Khiêm cưới nàng Đổng thị (không rõ tên) mới 18, con nhà trâm anh. Cưới nhau
xong, để vợ lại quê nhà Hàng Châu, ông làm Tuần án đi thị sát Hà Nam và Sơn
Tây. Rồi vì chức trách, ông đi biền biệt khắp nơi. Mãi 12 năm sau, Vu Khiêm mới
được về kinh, rước vợ con lên ở chung. Tiếng là vậy, song đôi lứa cứ như vợ chồng
Ngâu, vì công vụ liên miên, ông nào được rảnh để ở nhà. Tuy vậy vợ chồng vẫn
tin thư qua lại không ngớt. Trong thơ ông làm tặng vợ thường thấy nỗi day dứt
vì không tròn bổn phận làm chồng.
Ăn ở với nhau 28 năm, có hai mặt con
đủ trai gái thì Đổng thị mất. Từ đó ông không tục huyền, ở vậy luôn mười một
năm cho tới bị xử trảm.
Trong thơ Vu Khiêm khóc vợ, Điệu nội
Thập nhất 悼內十一首 (Mười một bài Thương tiếc vợ), bài thứ tư có hai câu vầy:
破鏡已分鸞鳳影 Phá kính dĩ phân loan phượng ảnh
遺衣空帶麝蘭香 Di y không đới xạ lan hương
(Tấm gương đã vỡ khiến chia cắt hình
bóng đôi chim loan phượng; Khiến manh áo chừa lại chỉ còn mùi lan xạ suông).
“Phá kính” là tấm gương bị bể ra.
“Gương vỡ lại lành” là điển tích vợ chồng sum họp, còn ở đây gương vỡ không
lành khiến loan phượng không còn soi chung bóng, là nói tình nghĩa vợ chồng từ
nay đành âm dương cách biệt.
“Di y” là manh áo chừa lại, không nỡ
chôn theo, để dành cho đỡ nhớ. Áo đó giờ đem ra xông hương lại thêm buồn, vì mỗi
lần xông thì mùi lan xạ lại càng làm phai mất hơi vợ.
Tứ thơ nầy hoàn toàn trùng khớp với
hai câu thơ Tự Đức, tới nỗi nếu ông sinh sau, ta có thể khẳng định là Vu Khiêm
đạo thi. Nhưng ông lại sinh trước, vậy chẳng lẽ Ôn Như hầu hay vua Tự Đức ăn cắp
thơ Vu Khiêm?
Tôi không nghĩ vậy.
Đập cổ kính ra tìm lấy bóng
Xếp tàn y lại để dành hơi
Đây chỉ có thể là ai đó dịch thơ Vu
Khiêm ra chữ Nôm, rồi nhét vô miệng Tự Đức (hoặc Nguyễn Gia Thiều). Nhưng dịch
vụng về, không hiểu nghĩa chữ. “Phá kính” là danh từ, chỉ tấm gương đã vỡ, lại
hiểu thành động từ là “đập phá” (đập vỡ cái gương ra). “Di y” là manh áo chừa lại,
thì hiểu thành manh áo cũ nát. Cả Ôn Như hầu lẫn vua Tự Đức đều tinh thâm Hán học,
không thể tệ tới nỗi đọc tác thành tộ kiểu vậy.
Lê Vĩnh Húy

No comments:
Post a Comment