Thuở trời đất nổi cơn gió bụi.
Khách má hồng nhiều nỗi truân chuyên.
( Chinh Phụ Ngâm Khúc)
Trong cuộc sống có những ân tình,
nhưng vì hoàn cảnh, hay vì lý do nào đó không trả được, tôi ghi mãi trong lòng,
ấp ủ sâu thẳm tận trái tim như báu vật để rồi một lúc nào đó chợt nhớ lại, trân
trọng với lòng tri ân vô bờ bến.
Câu chuyện tôi muốn kể sau đây xảy ra
sau biến cố 1975, đánh dấu một giai đoạn thê thảm nhất đời tôi, tưởng có thể gục
ngã, nhưng chính vào lúc như thế, chỉ cần một bàn tay, một chút ân tình, cũng
có thể cho ta sức sống, hy vọng, niềm tin để vượt qua những chông gai, vươn vai
đứng vững trên những thử thách.
Như hôm nay trên xứ lạ, bâng khuâng
nhìn những sợi tuyết mong manh thật nhỏ như tơ trời, nhẹ nhàng rơi trông như
cơn mưa phùn Hà Nội. Mưa tuyết lê thê dai dẳng, không biết bao giờ dứt. Trời u
ám một màu xám tro, ảm đạm, dễ khiến lòng người tha hương vốn u uẩn càng u uẩn
hơn. Nỗi buồn xa xứ dai dẳng như bám sâu từ lúc nào trong tâm khảm, chỉ chờ một
cơn gió nhẹ, một chiếc lá rơi hay như bầu trời ảm đạm hôm nay cũng gợi lại bao
nỗi niềm xưa cũ.
Mưa phùn Hà Nội – internet
Tôi nhớ rõ lắm, cũng thời tiết này,
cũng với cái giá lạnh của mùa Đông, ngày đó, tôi đã trải qua bao gian truân, khổ
ải. Cho đến bây giờ, ngồi trong căn nhà ấm áp bình yên nơi xứ lạ, ngồi nghĩ lại,
tôi tự hỏi từ đâu, từ sức lực nào, từ nghị lực nào tôi có thể vượt qua mọi thử
thách để tồn tại.
Ngày đó, tôi còn trẻ, mới chỉ 23 tuổi
đời. Cơn bão thời cuộc ập tới, quất vào mặt tôi những cái tát nảy lửa, bỏng rát
và phủ lên cuộc đời tôi một màu xám ảm đạm. Cũng như bao thân phận của những phụ
nữ miền Nam sau 1975, tôi sống kiếp “Hòn Vọng Phu„ vì chồng tôi khăn gói vào tù
mịt mờ không biết ngày trở lại.
Ở nhà lủi thủi một mình với cụ bố chồng,
cuộc sống lê thê ảm đạm, ngày này qua tháng khác, năm này sang năm kia. Cho đến
khi biết Huy, đấng lang quân của tôi bị đày ra Bắc, tận Lào Cai, vùng rừng sâu
nước độc, tôi coi như chết cả cuộc đời. Như cái án tử hình treo lơ lửng trước mặt.
Cái án dành cho chàng và cả cho tôi. Tôi sống mà như cái xác không hồn, buông
xuôi, thả đời cho số phận.
Ở nhà mãi với cụ bố chồng đáng tuổi
ông nội, mà lại là một nhà nho…chùm, cực kỳ phong kiến, khó tính. Hai thế hệ
như hai thái cực. Tôi buồn hiu hắt. Nỗi buồn âm ỉ, thấm sâu, đốt dần từng tế
bào trong cơ thể tưởng như không còn sức sống. Tôi rũ xuống, mềm nhũn như một
con giun đất. Để giải khuây vơi bớt nỗi sầu, hay nói đúng hơn muốn thoát thân,
thay đổi chút không khí cho dễ thở, tôi vùng dậy lấy cớ đi thăm nuôi chồng, mặc
dù tôi biết cực kỳ vất vả khổ sở, nhưng với tôi, cái khổ thân xác vẫn chịu được,
không ăn thua gì so với cái khổ tinh thần. Lại nữa thăm nuôi để chia sẻ nỗi khổ
nhục của chàng. Là động cơ thúc tôi tiến tới. Không cần những bức thư chàng viết
về bóng gió, tôi vẫn biết chàng đang đói khổ, rét lạnh đang chết dần với cái
án…thật, lao động khổ sai vô hạn định, không biết ngày trở về. Sự sống như mành
treo chuông. Chàng đang mong mỏi sự tiếp tế của gia đình, vợ con…!
-Ra Bắc một mình nguy hiểm lắm con ạ.
Con nên ở nhà cho bố an tâm. Một đứa đi tù đã khổ rồi. Còn một đứa bố không muốn
khổ thêm.
Câu nói như một điệp khúc, cụ Lý, bố
chồng tôi nhắc nhở nhiều lần mỗi khi tôi đòi ra Bắc thăm nuôi. Tôi nghe quen
tai hay nói cho đúng hơn lòng tôi chai đá không còn biết sợ là gì, ngoài nỗi
chán chường hiện tại.
-Bố ạ, sau biến động biên giới với
Trung quốc, nhà con đã chuyển từ Lào Cai xuống Nghệ Tĩnh (thành phố Vinh). Nghệ
Tĩnh không xa nữa, con có khổ một chút cũng không sao, con chịu được , bố ạ.
Rồi không đợi cụ lên tiếng cho phép,
tôi cứ lặng lẽ sắm sửa quà cáp, sắp xếp chuyến đi và đi một mình.
Chuyến tàu Sài gòn – Hà nội lăn bánh
khi phố xá vừa lên đèn, bỏ lại sau lưng tôi bao nỗi ưu tư, phiền muộn của tháng
ngày buồn chán. Ngồi co ro trong chiếc ghế chật hẹp, xung quanh tôi toàn cán bộ,
bộ đội, đồng bào miền Bắc và dân buôn hàng chuyến ngồi la liệt xếp lớp dọc lối
đi; nỗi ưu tư khác lại bắt đầu ùa đến cùng với nỗi cô đơn trống vắng lạ thường.
Trên tàu, tôi không gặp được bất cứ người thân quen hay người đồng cảnh ngộ nào
để hy vọng làm bạn và nương tựa giúp đỡ nhau mang xách khi thăm nuôi, mặc dù
lúc này, phong trào thăm nuôi tù miền Bắc đã được nới lỏng. Tôi lo lắng ra mặt.
Ngồi đối diện tôi, một thanh niên trẻ
lên tiếng:
-Chị ra Bắc thăm thân nhân cải tạo,
phải không?
-Vâng. Sao anh biết?
-Nhìn cung cách chị, tôi đoán thế. Chị
xuống ga nào?
-Tôi xuống Vinh.
-Tôi cũng xuống Vinh. Hành lý chị nặng
nề, tôi sẽ giúp chị một tay.
Tôi nhìn sững anh ta, âm thầm nhận
xét. Nét mặt anh hiền hòa. Lời nói nhẹ nhàng từ tốn. Tôi an tâm nhưng cũng nói:
-Vâng. Cám ơn anh. Nếu tôi không gặp
được bạn nào, tôi sẽ phiền anh.
Con tàu vẫn sình sịch nghiến đều trên
đường sắt. Cứ tới mỗi một ga, hành khách lại ồn ào nhốn nháo. Kẻ xuống người
lên, hốt hoảng gọi nhau ơi ới. Những lúc như thế, tôi cố đưa mắt tìm kiếm người
nào có bộ dáng đi thăm nuôi để làm quen, nhưng tuyệt nhiên không gặp ai. Cuối
cùng, sau ba ngày ba đêm, con tàu cũng tới Vinh mà tôi không tìm ra được người
thân quen nào cả.
Tới Vinh, trời còn nhá nhem tối của 3
giờ sáng. Trên sân ga vắng lặng. Hiu hắt vài bóng đèn vàng đủ soi rõ lác đác
vài bóng người lầm lũi lên tàu và xuống tàu. Mưa đêm lất phất rơi, nhẹ lắm; chỉ
như sương thoảng trong không gian nhưng cũng len được cái hơi lạnh làm buốt thịt
da. Tại Vinh, giờ này mọi nhà đang an giấc ngủ, phố xá im lìm vắng tanh. Không
một chiếc xích lô hay phương tiện giao thông nào. Anh bạn đi đường nói với tôi:
-Chị thấy đấy, giờ này nhà trọ đều
đóng cửa. Nếu chị không ngại, xin mời chị tạm nghỉ nhà chị gái tôi, như tôi đã
thưa với chị.
Không còn sự lựa chọn nào khác hơn,
tôi gật đầu.
Suốt ba ngày ba đêm trên tàu, vào những
lúc tàu dừng ở ga để lấy nước, cho hành khách xuống xả hơi, ăn uống…tôi có dịp
hàn huyên, chuyện trò cùng anh. Anh là thanh niên xung phong, tình nguyện vào
Nam công tác và có người nhà từng “di cư„ năm 1954. Anh kể thì tôi biết nghe,
còn sự thật thế nào tôi không quan tâm, chỉ thấy là trông bộ dáng anh hiền
lành, ánh mắt không láo liên, tròng đen nhiều hơn tròng trắng, khuôn mặt phúc hậu…nên
tôi tin cậy thôi. Mà không tin không được. Tới Vinh, trong hoàn cảnh hiện tại,
tôi không còn lựa chọn nào khác, không thể một mình ngồi đây đợi sáng giữa mùa
Đông giá rét như thế này.
Tôi liều nhắm mắt đưa chân, đánh cá số
phận. Cái số phận, mà xã hội đương thời và cả chính tôi vốn coi rẻ hơn bèo!
Tôi xuống tàu đứng trông hành lý của
tôi và của anh, trong khi đợi anh đón chiếc xe đạp mua từ miền Nam đem ra Bắc.
Rồi cứ thế, anh chất hết hành lý của anh và của tôi lên xe. Anh kéo phía trước,
tôi đẩy phiá sau, lặng lẽ theo con đường dẫn về nhà chị anh.
Trời đêm vẫn lất phất mưa, thấm dần
trên chiếc áo len dày. Dù vận động đi bộ và đẩy xe, tôi vẫn lạnh run, răng đánh
bò cạp.Trên đường không một bóng người, ngoài anh và tôi. Hai chiếc bóng lầm
lũi chầm chậm đi trên con đường đất sỏi, nhầy nhụa bởi cơn mưa.
Gọi là thành phố Vinh, nhưng nơi đây,
hai bên đường toàn những căn nhà lụp xụp, cũ kỹ, mái tôn nhiều hơn mái ngói.
Không có hàng quán nào, không có cái sinh động của một thành phố. Không phải vì
đang nửa đêm, cho dù có là ban ngày, nơi đây vẫn vắng vẻ tiêu điều. Cũng không
hẳn vì chiến tranh mà ra thế, mà vì chính sách ngăn sông cấm chợ, buôn bán chỉ
tập trung vào nhà nước nên phố sá thiếu đi cái sinh lực của cuộc sống. Tôi chả
nói chả rằng, cứ lầm lũi đi sau lưng anh giữa phố đêm buồn ảm đạm.
Nhà người chị khá xa, phải mất non tiếng
đồng hồ, băng qua nhiều hàng cây âm u, cánh đồng lúa, và cả những mái tranh
xiêu vẹo thấp thoáng ẩn hiện dưới ánh đèn đường. Cuối cùng len theo con đường
mòn, nhỏ, quanh co, rồi cũng đến nhà chị anh.
Đó chỉ là căn nhà tranh ba gian, thấp
lè tè. Người chị thức dậy châm ngọn đèn dầu hớn hở đón khách. Nét chất phác đôn
hậu thân thiện hằn rõ trên nét mặt chị giúp tôi an tâm. Đám con năm đưá, toàn
gái không, như anh kể, còn đang yên giấc ngủ. Tôi không thấy chồng chị, nhưng
cũng không hỏi. Có thể ông đi công tác xa.
Có khách, người chị lăng xăng xuống bếp
châm củi đun một ấm nước sôi, đổ ra lu rồi gọi tôi đi tắm.
Ba ngày ba đêm trên tàu, chỉ rửa mặt
không, giờ được tắm còn gì hơn.
Buồng tắm chỉ là 4 vách tre nan, dựng
sau vườn, không có cửa. Trời đêm âm u, chỉ le lói lờ mờ bằng chiếc đèn dầu từ
nhà trước hắt ra. Nhưng không sao. Một liều ba bảy cũng liều! Tôi dội nước giữa
cái giá lạnh của thời tiết, cảm thấy khoan khoái nhẹ nhàng không chỉ trút bỏ
bao bụi đường mà còn thấy ấm áp trong cái tình của con người với con người đối
xử nhau lúc khó khăn, hoạn nạn!
Tắm xong bước vào nhà, nơi căn bếp,
tôi thấy người chị đang lui cui làm gà nấu cháo. Gà chị nuôi thả rong trong vườn,
ngoài việc tăng gia để thỉnh thoảng góp phần phong phú vào cái ăn cho gia đình
còn đáp ứng khi hữu sự.
Chẳng bao lâu chị bưng lên hai tô
cháo gà nóng hổi cho tôi và cho cậu em chị. Tô cháo nóng làm ấm cõi lòng, nhất
là đang mùa Đông giá rét. Tôi vừa ăn vừa cảm kích tấm lòng tốt của gia đình chị,
vừa áy náy không biết lấy gì đền ơn. Thế nhưng, khi ăn xong lên giường chùm
chăn ngủ trên chiếc chõng tre đặt sát cửa sổ ngay phòng khách được ngăn bởi một
chiếc màn thô, những nan tre mong manh không ngăn nổi gió lùa nhè nhẹ len vào.
Dù đi đường ngủ gà ngủ gật vô cùng mệt mỏi, tôi vẫn không cách nào chợp mắt được.
Phần vì lạnh, phần lạ nhà, phần…sợ nữa! Sợ vu vơ! Mắt tôi mở thao láo.
Trong bóng đêm mịt mờ, tiếng ếch nhái
ễnh ương sau vườn tấu lên một khúc nhạc nghe thật ma quái. Tôi vốn sợ ma, ma sống
lẫn ma chết. Một nỗi lo sợ vu vơ, cảm giác bất an lại ùa về. Những câu chuyện
giết người trong đêm khi nạn nhân ngủ say làm cho tôi thấp thỏm.Tôi đưa tay nắn
túi quần. Một lạng vàng lá và chút tiền đi đường vẫn nằm yên trong đó. Khi đi
thăm nuôi, bạn bè chỉ dẫn tôi làm ăn. Mang vàng ra Bắc bán được giá cao hơn rồi
mua đường hóa học, vải “va li gie„ đem về Nam kiếm lời. Phải suy tính mua bán
thế nào để gỡ gạc tiền tàu xe vốn mua chợ đen rất mắc và cả sinh kế cho gia
đình giữa thời buổi kinh tế khó khăn gạo châu củi quế. Chính lạng vàng là
nguyên nhân khiến tôi lo sợ. Chỉ cần anh lẻn vào nhấn cổ tôi, lạng vàng sẽ tiêu
tùng mà mạng tôi cũng khó thoát. Càng nghĩ, tôi càng thấy tôi liều thật. Nhưng
biết sao giờ. Tôi đem số mạng đánh loto. Mạng tôi vốn rẻ hơn bèo mà. Mắt thao
láo nhìn bóng đêm, tôi cố lắng nghe tiếng rù rì trò chuyện của hai chị em,
nhưng không sao nghe được. Tôi trăn qua trở lại nhiều lần, cho đến khi quá mệt
mỏi, tôi thiếp đi lúc nào không hay.
Tờ mờ sáng hôm sau, có người lay tôi
dậy:
-Chị, chị ơi, dậy đi. Đã gần 7 giờ
sáng rồi. Tôi đưa chị ra bến xe Vinh để còn tiếp tục đến chỗ trại thăm nuôi.
Tôi mở choàng mắt. Thấy anh đang đứng
ở đầu giường. Vẫn nét mặt hiền hòa, vẫn nụ cười dịu dàng, đôn hậu, lòng tôi dấy
lên một chút ân hận đã nghĩ quấy cho anh.
Tôi lồm cồm ngồi dậy xỏ chân vào dép,
dọn dẹp chăn gối, xếp lại cho ngay ngắn, xong, bước ra nhà sau rửa mặt rồi chuẩn
bị thu vén hành lý lên đường.
Cũng như lúc đến, bây giờ khi đi, anh
lại cẩn thận chất hành lý của tôi lên chiếc xe đạp. Anh kéo phía trước, tôi đẩy
phía sau theo con đường cũ ra bến xe Vinh.
Bến xe đã đông đúc người qua kẻ lại.
Tiếng rao hàng, tiếng hỏi han, trò chuyện cứ ì xèo cả lên. Anh chạy mua giúp
tôi một vé xe đò lên huyện Thanh Chương, nơi giam tù cải tạo, để từ đó tôi còn
phải tiếp tục hơn 20 cây số đường rừng nữa mới tới trại thăm nuôi.
Có vé trên tay, anh còn chạy tìm xe
nào đúng chuyến để đưa hành lý của tôi lên mui. Còn tôi, tôi chỉ đứng giữ chiếc
xe đạp của anh. Sau khi đã hoàn tất đâu vào đấy, anh mới đến bên tôi, chúc tôi
lên đường thượng lộ bình an.
Xe vẫn chưa lăn bánh, nên tôi vẫn còn
đứng bên dưới lóng ngóng nhìn người qua kẻ lại. Anh biến đi đâu mất, lúc trở lại,
để trước khi tôi chia tay anh với lời cám ơn…suông, anh chìa ra cho tôi một gói
xôi nhỏ với một bình nước anh vừa chạy đi mua. Trước sự quan tâm tỉ mỉ quá chu
đáo tế nhị của anh, tôi cảm động thật sự, thật ấm lòng khi tôi đang buồn tủi, cảm
thấy bơ vơ lạc lõng giữa xứ lạ quê người. Nước mắt tôi rưng rưng quanh khóe, chực
trào ra, nhưng tôi cố kìm lại để dấu nỗi xúc động trong lòng, lẫn một chút xấu
hổ, ân hận tôi đã nghĩ quấy cho anh trước đây. Tôi chỉ biết nhìn anh, chưa kịp
thỏ thẻ vài lời cám ơn…suông, anh móc trong túi áo, đưa tôi mảnh giấy nhỏ, anh
viết tự lúc nào, rồi nói:
-Đây là địa chỉ nhà chị tôi. Khi chị
trở lại, cứ đến đấy. Chiếc xe đạp này tôi mua về cho chị tôi. Nếu chị cần, cứ
dùng làm phương tiện. Ở Vinh, xích lô chỉ nằm ở bến xe, không nhiều lắm nên ít
thấy chạy ngoài đường. Phương tiện mọi nhà chỉ toàn xe đạp.
Tôi cầm mảnh giấy, cẩn thận cất vào
túi áo, và lại lần nữa, tôi chỉ có lời cám ơn suông!
Tôi lên xe. Quay xuống nhìn anh. Anh
vẫn còn đứng đó đưa tay vẫy vẫy cho tới lúc xe lăn bánh và bóng anh khuất sau rặng
tre xanh.
Ngồi trên xe, tôi miên man nghĩ về
anh, về cử chỉ ân cần chu đáo của anh và của chị anh, nói lên tình cảm chân
thành và sự cảm thông của đồng bào địa phương dành cho gia đình người tù miền
Nam. Lòng tôi chùng xuống với những cảm giác lâng lâng khó tả. Chiếc xe đò cà
tàng, lôi thôi luộm thuộm nhét cứng đầy người, bồng bềnh, vồng lên hục xuống nhồi
thật mạnh khi gặp trúng ổ gà làm cho tôi ngất ngư. Cuộc đời tôi, tâm trạng tôi
hiện tại cũng bềnh bồng như thế. Nhưng chiếc xe còn có đích để tới, còn tôi,
con đường trước mắt chỉ thấy toàn ngõ cụt, loanh quanh trôi nổi mãi, không biết
sẽ ra sao, về đâu với một tương lai vô định mịt mờ. Ngoài kia, mưa vẫn lất phất
rơi, dai dẳng, như khóc thương cho những cánh đồng lúa mênh mông xanh tươi chìm
trong một màu xám âm u, âm u như tuổi đời thanh xuân của tôi hiện tại. Tôi chợt
thở dài, co mình lại để chống cái lạnh của thời tiết. Không khí ẩm hơi sương
càng lạnh thêm, cho dù mặc chiếc áo len dày vẫn không đủ ấm, nhưng nghĩ đến
anh, đến ân tình của anh, sự tử tế của chị anh, lòng tôi chợt ấm lại.
Sau lần ra Vinh đó về lại Sài Gòn,
trước những lo toan bận rộn của cuộc sống, cùng sự đưa đẩy của giòng đời, tôi
lênh đênh trôi dạt sang xứ người, cũng một mình, trong tay trắng trơn, tâm trạng
hoang mang khủng hoảng, ngay cả một tấm giấy hộ thân cũng không có, tôi đã lạc
mất địa chỉ anh cho. Tôi không còn cơ hội gặp lại anh nữa, cũng không biết anh
hiện giờ ra sao, ở đâu, làm gì…nhưng tôi tin một cách tuyệt đối, một người như
anh, Trời Phật sẽ thưởng cho anh một cuộc sống tốt đẹp, tươi sáng. Riêng tôi,
hình ảnh với tấm lòng tốt của anh, của chị anh, tôi khắc cốt ghi tâm, luôn in
sâu trong tâm khảm, để bây giờ, mỗi khi nhìn tiết trời lất phất mưa, như cơn
mưa (tuyết) hôm nay, tôi chợt nhớ cơn mưa thuở nào với bao hình ảnh xa xưa sống
dậy ghi đậm nét ân tình của anh.
Và hôm nay khi kể lại, viết ra, tôi vẫn
còn xúc động, trân trọng tấm lòng vàng quí hoá đó và luôn tự nhủ, tôi sẽ sống tốt
với đời, với người như anh đã đối xử tử tế với tôi, đó là cách đáp đền, tri ân
anh, tri ân đời sâu xa nhất.
Trần Thị Nhật Hưng


No comments:
Post a Comment