ĐÀ LẠT TRĂM
NĂM: MÀU CỦA TIẾNG VÓ NGỰA
Tôi vẫn đang
ở Đà Lạt. Thế mà có lần tôi giật mình nhớ “Đà Lạt”. Có cái gì đó đang “gõ” vào
tôi thế này, gõ êm lắm, thân thiết ở một đoạn đời đi mây về gió…
Buổi đó tôi ở
giữa hai ngả sống, phong trần mơ mộng hoặc thực dụng hiện sinh. Bấm nút hiện
sinh. Từ đó tôi tần tảo. Buổi đó tôi thường cuốc bộ.
Buổi đó Đà Lạt
không cần tưng bừng.
Buổi đó, bạn
vong niên phố lạnh này sống bằng nghề lâm nghiệp, Phạm Ngọc Lai, đã lặng lẽ viết
bản tango cho chính mình hát với sắc thái câu nhạc: “Một chiều nhạc ngựa về
buông vó mềm…”.
Vó ngựa đi
trong chiều đã liêu trai, nhưng đi trong mưa thì thành huyền ảnh. Thì ra đâu đó
người nơi này từ lâu đã xem tiếng vó ngựa là hơi thở rồi. “Lộc cộc, lộc cộc, lộc
cộc” cứ thế gõ xuống mặt đường lạnh câm. Bởi phố quá yên, người quá thưa, nhà cửa
quá rời, xe cộ quá hiếm. Xứ sở như thường hằng thinh lặng, ngậm đầy một nốt si
giáng. Phố chỉ chờ đợi tiếng vó ngựa. Những thanh âm mỏng tanh đó chia sớt lên
cho những tàng cây n’ho (thông) thân mật. Xe ngựa lững thững qua phố, qua rừng,
qua dinh thự, qua chợ rau, chợ cá lớn bé gần xa, và còn thấy băng qua cả đồi
Cù, “trái tim” của phố xứ.
Từng chuỗi
tiếng vó ngựa lướt qua thảng hoặc, rồi hàng phố lại trở về lặng lờ như cũ. Ngày
qua ngày nó thế. Năm qua năm nó thế. Vó ngựa rải vào đâu tuyệt hơn bằng rải xuống
núi đồi. Lơ thơ, mơ mộng.
Xe thổ mộ
Đà Lạt đi phố, ở khu trung tâm Hòa Bình ngày nào. Ảnh: Đặng Văn Thông
Vó ngựa nhả
ra “Đà Lạt”. Tiếng vó ngựa uốn cong những con đường. Đồi núi mê hoang. Đồi núi
ngạo nghễ và kiêu hùng. Đồi núi khiêm nhường và bản lĩnh.
Vó ngựa xô
những thung sâu xuống sâu hơn. Trôi bạt những phồn hoa bắt chước, học đòi.
Khinh bạc văn minh cơ khí. Giễu nhại xã hội công nghiệp ở các miền xứ xa. Đến
làn sương như còn hoài cổ ngay khi nó tắm trong tiếng vó ngựa thồ. Kiến trúc gọi
tên. Hàng phố mơ màng. Cái gì chạm tới thuần khiết mà không hòa vào trời xanh.
Mà không tan vỡ tim tôi. Rằng nơi đây là miền thanh cảnh, xứ du lịch. Phố lạ,
như “giai nhân” chứa không đủ nhân tình.
Người Đà Lạt
ăn không nhanh, đi không vội, nói không hét, đâu đó nó tựa thần thái thong dong
của tiếng vó ngựa thồ. Đà Lạt chỉ là Đà Lạt thôi. Vó ngựa chỉ là vó ngựa thôi.
Vó ngựa và giai nhân. Vó ngựa và thời gian.
Tôi thương
tiếng vó ngựa.
oOo
Là một kẻ nhập
cư, tôi hòa vào nhịp đời thế đó của Đà Lạt. Một Đà Lạt của nghiêm chỉnh, của cần
lao, của cỏ cây, của hàn lâm, của nông nghiệp, của tu viện, của học viện, của
giáo đường, của thiền đường, của phúc âm, của chánh pháp, của khoa học, của nghệ
thuật, của bán buôn, mà hoạt động nghỉ dưỡng du lịch chỉ là một phần rất nhỏ bé
trong tích hợp ấy. Buổi sáng của những ngày cuối tuần, tôi bước lên những chuyến
xe ngựa như thế để đến những khu du lịch mà chụp hình dạo cho du khách. Du
khách lưa thưa, khách du không có ùn ùn. Xe thổ mộ chở mọi người, từ kẻ chợ búa
đến cô cậu học trò, lữ khách; từ cô bác nông dân luôn mang ủng đến mấy anh
chàng công chức mặc veston; còn dụng cụ lao động, giỏ cần xé bằng tre thì người
xà ích bố trí lủng lẳng hai bên hông nó. Chẳng có ai “trên” – “dưới”, chẳng có
ai “sang” – “hèn”…
Thổ mộ lộc cộc
vào ban mai, lộc cộc trong nắng vàng, lộc cộc trong giá lạnh, lộc cộc trong
hoàng hôn, ngày chói chang lẫn ngày âm u. Thứ thanh âm “nam tính”, trượng phu
cho một xứ sở mang “tính” nữ. Tiếng gõ lộc cộc sao nó gợi giống âm: “đời vô thường”,
“đời vô thường”, “đời vô thường” quá. Nghe như lời kinh cầu, nhắc nhở. Mà nó
cũng rất giống âm: “Mày một cuốc. Tao một cắc. Mày một cuốc. Tao một cắc”, ở
chuyện mưu sinh nơi người đời. Mà không chỉ gõ trên đường phố, gõ ở khu Hòa
Bình, ven hồ Xuân Hương, nó rải về ngoại ô Đa Thiện, Tùng Lâm, Nam Hồ, Sở Lăng,
Cầu Đất, Vạn Thành, Thái Phiên, Chi Lăng, Trại Hầm, Trại Mát…
Bước chân ngựa
nhẹ êm trong những vườn lơ ghim. Nó chở những bao phân xác mắm vào tít những vạt
rau ẩn trong rừng n’ho mà các cô bác nông dân đang đợi. Chỉ xe ngựa mới len lỏi
được vào hốc núi mang những cần xé rau củ ra ngoài. Buổi này người ta coi rừng
núi quý lắm, không dễ để cả gan muốn là mở đường băng qua rừng cho xe hơi tung
hoành. Nó cứ như muốn khắc hằn vào những chỗ đó, cái chỗ làm nên hồn vía Đà Lạt
chứ không phải mấy cái khách sạn hay khu điểm xem – chơi – xả xú páp – chụp
hình của du khách.
Khó mà xóa
nhòa được ở tâm trí này hình ảnh những con ngựa hết lòng kéo cho được những cần
xé chất đầy rau củ ra khỏi những vườn đất đỏ feralit giúp người. Có cái gì đó vừa
riêng biệt vừa gần gũi, vừa xa hoa vừa tần tảo, vừa thân thiện môi trường vừa
thân thiện cuộc sống tự nhiên. Phường nào cũng có đôi mảnh đất hoang dành cho
xe ngựa đỗ. Trường học, rạp phim, bệnh viện nào bên hông chẳng có những chiếc
xe ngựa đứng đợi người. Những bến xe ngựa be bé phía trước hoặc phía sau các chợ.
Điểm du lịch nào cũng không thể thiếu bãi xe ngựa ở phía ngoài.
Tranh
Đinh Cường.
Người ta có
thể đón xe ngựa ở bất cứ điểm nào trên lộ trình chuyến xe thổ mộ ấy đi qua. Ai
lên xe trước thì được ngồi giữa xe, ai lên sau thì rắp mình vào chỗ tự thấy hợp
lý còn lại, và bác xà ích cũng không cần phải làm cái việc sắp xếp. Luật bất
thành văn, cứ mỗi khi xe lên một con dốc thì đàn ông trên xe tạm nhảy xuống để
con ngựa được bớt tải trọng… Thứ nền nã thuận hòa, lành mạnh, văn minh tự
nhiên, không lý trí. Dùng trái tim, tâm hồn, sự tinh tế để sống.
Vượt trên một
phương tiện vận chuyển, hình như những chiếc thổ mộ kia đã thành văn hóa của một
vùng đất.
oOo
Tiếng vó ngựa
thương người Đà Lạt. Nó thương cả tôi, kẻ ngụ cư.
Những cuối
ngày, giao cho xong những tấm hình tới tay du khách rồi mà vẫn còn nghe vó ngựa
nào đó ngang qua chỗ trọ. Ở đây là thế, như hòa thượng Thích Viên Như trong một
ca khúc của ngài “Phố xá nằm nghe khúc giao mùa”. Tiếng vó ngựa trong đêm khuya
càng thăm thẳm. Gió khuya đứng lặng, nhường ngai cho vó ngựa lên ngôi. Nghe như
một gã say quên thời gian, ngày tháng. Nghe như những lâu đài nát tan. Nghe như
cỏ rêu đang mọc trên những dinh cơ hoàng triều cương thổ. Nghe như ông Năm
Yersin ở Suối Dầu đang nhớ cao nguyên lạnh. Nghe như dư vang người đẹp Nam
Phương đang oằn lòng vì bị bội tình bởi lời thề nhất mực thủy chung của quân
vương.
Nhiều lúc chả
hiểu tiếng vó ngựa đó sao nó lại sinh thành.
Đà Lạt như một
đô thị hóa thân.
Hóa thân để
nối kiến trúc vào trời xanh, nối người đời vào thiên nhiên, nối cỏ cây vào trí
tuệ, nối lịch sử vào lịch sử và băng trên lịch sử. Nó không có bóng dáng của thắng
thua, trách móc, hận thù. Hòa cả tiếng vó ngựa vào gạch gỗ, đất đai.
Đà Lạt cứ thế,
như thể thành phố cuối cùng còn dung chứa cho xe thổ mộ, cho tiếng vó ngựa…
oOo
Rồi nào ngờ
những tiếng vó ngựa cũng xa tôi. Nó đẩy tôi vuột mất thứ nhạc đời. Nó bị “trảm”.
Xóa sạch. Chắc là xóa đi “quê mùa”, lỡ thời, “lạc hậu”. Chắc là để Đà Lạt “văn
minh”, “tân tiến”. Nhường chỗ cho cơ khí, tiện lợi và sự bộn bề đang chờ phía
trước. Xóa đi cái chuỗi xoắn kép, nhiễm sắc thể, cái “DNA” của xứ sở. Lịch sử vận
tải trên mặt đất đã sang trang, xe ngựa đã làm xong nhiệm vụ lịch sử của nó, thế
mà có kẻ vẫn còn hoài niệm nó thế này!
Bữa tiệc nào
tàn mà chẳng còn dư vị. Thôi, cứ để nó lộc cộc lên ký ức. Tôi vượt qua, nhưng
không biết những cung đường chập chùng mênh mông kia có mơ dấu ngựa. Mà đâu chỉ
nó xa tôi, nó xa hết thảy mọi người. Nó còn trong bản nhạc của anh bạn nhạc sĩ
nghèo người Đà Lạt, Lê Huy Cầm: “Chú ngựa già leo lên dốc đá. Chuyến hàng xa
bây giờ có nặng”. Nó còn ở đâu đó trong tranh của Đinh Cường, danh họa vẽ nhiều
về Đà Lạt và tự xem mình là đứa con danh dự của Đà Lạt.
Tiếng vó câu
đã tắt, đâu đó từ sau năm 2000. Tắt một sắc màu riêng biệt cao nguyên. Tắt một
thuở thanh bình…
Nguyễn
Hàng Tình
Nguồn:Người
Đô Thị
Từ trang DĐQGHCUC

No comments:
Post a Comment