Tình yêu của một ký giả dành cho một dân tộc đầy
thương tích
LGT: Cuốn sách Đức:
"A reporter's love for a wounded people" (Tình yêu của một ký giả dành cho một dân tộc đầy
thương tích) của tác giả Uwe Siemon-Netto đã viết xong và đang
chờ 1 số người viết "foreword" và endorsements.
Bản dịch đã
xong, được phép của tác giả chúng tôi xin giới thiệu đoạn kết rất xúc động mà
tác giả đã nói lên ước muốn, cùng với người Việt Nam nuôi dưỡng niềm hy vọng
một ngày không xa, Tự Do Dân Chủ sẽ trở lại với quê hương khốn khổ của chúng
ta. Q S
Đoạn kết
: Hậu quả của khủng bố và đức hạnh của hy vọng.
Ga xe lửa Huế, nơi một đầu máy và một toa hành lý
khởi hành chuyến tầu tượng trưng 500 thước mỗi buổi sáng vào lúc 8 giờ sẽ không
còn đáng đi vào kịch trường của sự phi lý nữa. Nó đã được phục hồi đẹp đẽ và
sơn phết lại mầu hồng. Một lần nữa, tương tự như những ngày dưới sự thống trị
của người Pháp, nó là nhà ga xe lửa đẹp nhất vùng Đông Dương và tài xế tắc-xi
không phải chờ đợi vô ích bên ngoài.
Mười chuyến tầu thong dong chạy qua mỗi ngày, năm
chuyến xuôi Nam và năm chuyến ra Bắc. Gộp chung lại chúng được mệnh danh một
cách không chính thức là Tàu Tốc Hành Thống Nhất. Chẳng lẽ nào tôi lại không
mừng vui? Chuyện này có khác nào bên Đức khi bức tường Bá Linh đổ xuống và
những bãi mìn biến mất, và nay những chuyến tầu cao tốc phóng ngược xuôi giữa
hai xứ nguyên là Cộng sản bên Đông và Dân chủ bên Tây với tốc độ lên tới 200
dặm một giờ?
Hiển nhiên là tôi rất vui khi chiến tranh kết thúc
và Việt Nam được thống nhất và phát triển, những chuyến xe lửa đã hoạt động trở
lại và các bãi mìn đã được tháo gỡ. Nhưng đến đây thì sự tương đồng với nước
Đức chấm dứt. Nước Đức hoàn thành sự thống nhất, một phần nhờ người dân tại
Đông Đức đã lật đổ chế độ độc tài toàn trị bằng những cuộc biểu tình và phản
kháng ôn hòa, một phần nhờ vào sự khôn ngoan của các nguyên thủ quốc tế như các
vị Tổng thống Ronald Reagan và George G.W. Bush, của Thủ tướng Helmut Kohl, của
lãnh tụ Sô Viết Mikhail Gorbachev, và cũng phần khác vì sự sụp đổ có thể đoán
trước được của hệ thống xã hội chủ nghĩa sai lầm trong khối Sô Viết. Không có
ai bị thiệt mạng trong tiến trình này, không một ai bị tra tấn, chẳng có ai
phải vào trại tù và cũng không có ai bị buộc phải trốn chạy.
Có một khuynh hướng khó hiểu, ngay cả trong số các
vị học giả đáng kính của phương Tây đã diễn tả sự kiện Cộng sản cưỡng chiếm
miền Nam như là một cuộc "giải phóng." Điều này đặt ra một câu hỏi:
giải phóng cái gì và cho ai? Có phải miền Nam đã được "giải phóng"
khỏi sự áp đặt một nhà nước độc đảng toàn trị được xếp hạng chung với những chế
độ vi phạm tồi tệ nhất thế giới về các nguyên tắc tự do tôn giáo, tự do phát
biểu, tự do ngôn luận, tự do hội họp và tự do báo chí? Một cái thứ giải phóng
gì đã làm chết 3,8 triệu người dân Việt từ 1954 đến 1975 và đã buộc hơn một
triệu người khác phải trốn ra khỏi đất nước, không những từ miền Nam bại cuộc
mà cả từ những bến cảng miền Bắc và làm từ 200.000 đến 400.000 người gọi là
thuyền nhân bị chết đuối?
Có phải là hành động giải phóng không khi xử tử
100.000 người lính miền Nam và viên chức chính phủ sau ngày Sài Gòn thất thủ? Phải
chăng chỉ là một màn trình diễn nhân đạo của bên thắng cuộc bằng cách lùa từ
một triệu đến 2 triệu rưỡi người miền Nam vào các trại tù cải tạo, trong đó có
khoảng 165.000 người mất mạng và hàng ngàn người khác đã bị tổn thương sọ não
lâu dài và bị các vấn đề tâm thần do hậu quả của tra tấn, theo một cuộc nghiên
cứu của một nhóm học giả quốc tế do Bác sĩ tâm thần Richard F. Molina của đại
học Harvard dẫn đầu?
Từ giữa những năm 1960, những tay bịa đặt chuyện
huyền thoại về chính trị và lịch sử của phương Tây, hoặc ngây thơ hoặc bất
lương, đã chấp nhận lời giải thích của Hà Nội rằng cuộc xung đột là một cuộc
"chiến tranh nhân dân." Cũng đúng thôi nếu chấp nhận định nghĩa của
Mao Trạch Đông và Võ Nguyên Giáp về cụm chữ đó. Nhưng theo luật văn phạm về sở
hữu tự theo cách Saxon Genitive qui định thì "chiến tranh nhân dân"
phải được hiểu là cuộc "chiến tranh của nhân dân." Thực tế không phải
như vậy.
Ðã có khoảng 3,8 triệu người Việt Nam đã bị giết
giữa các năm 1954 và 1975. Khoảng 164.000 thường dân miền Nam đã bị thủ tiêu
trong cuộc tru diệt bởi Cộng sản trong cùng thời kỳ, theo nhà học giả chính trị
Rudolf Joseph Rummel của trường Đại học Hawaii. Ngũ Giác Ðài ước tính khoảng
950.000 lính Bắc Việt và hơn 200.000 lính VNCH đã ngã xuống ngoài trận mạc,
cộng thêm 58.000 quân Hoa Kỳ nữa.
Đây không thể là một cuộc chiến tranh của nhân dân
mà chính là chiến tranh chống nhân dân. Trong tất cả những lập luận đạo đức giả
về cuộc chiến Việt Nam ta gặp quá thường trong vòng 40 năm qua, cái câu hỏi
quan trọng nhất đã bị mất dấu hay AWOL, nếu dùng một từ ngữ viết tắt quân sự có
nghĩa là "vắng mặt không phép," câu hỏi đó là: Dân Việt Nam có mong
muốn một chế độ Cộng sản hay không? Nếu có, tại sao gần một triệu người miền
Bắc đã di cư vào Nam sau khi đất nước bị chia cắt năm 1954, trong khi chỉ có
vào khoảng 130.000 cảm tình viên Việt Minh đi hướng ngược lại?
Ai đã khởi đầu cuộc chiến tranh? Có bất kỳ đơn vị
miền Nam nào đã hoạt động ở miền Bắc hay không? Không. Có du kích quân miền Nam
nào vượt vĩ tuyến 17 để mổ bụng và treo cổ những người trưởng làng thân cộng,
cùng vợ và con cái họ ở đồng quê miền Bắc hay không? Không. Chế độ miền Nam có
tàn sát cả một giai cấp hàng chục ngàn người trên lãnh thổ của họ sau năm 1954
bằng cách tiêu diệt địa chủ và các đối thủ tiềm năng khác theo cách thống trị
theo lối Sô Viết của họ hay không? Không. Miền Nam có thiết lập chế độ độc đảng
toàn trị hay không? Không.
Với cương vị một người công dân Đức, tôi không can
dự gì đến cuộc chiến này, hay nói theo lối người Mỹ là "I have no dog in
this fight" (tôi chẳng có con chó nào trong vụ cắn lộn này cả). Nhưng,
nhằm chú giải cho cuốn sách "Lời nguyện của nhà báo", tương tự như
các phóng viên kỳ cựu có lương tâm, lòng tôi đã từng và vẫn còn đứng về phía
dân tộc Việt Nam nhiều đau thương.
Lòng tôi hướng về những người phụ nữ tuyệt vời với
tính tình rất thẳng thắn và vui vẻ; hướng về những người đàn ông Việt Nam khôn
ngoan và vô cùng phức tạp đang theo đuổi giấc mơ tuyệt hảo theo phong cách
Khổng giáo; hướng về các chiến binh giống như trẻ con đi ra ngoài mặt trận mang
theo cái tài sản duy nhất là một lồng chim hoàng yến; hướng về các góa phụ
chiến tranh trẻ với cơ thể bị nhào nặn méo mó chỉ vì muốn bắt một tấm chồng
lính Mỹ nhằm tạo một ngôi nhà mới cho con cái và có thể cho chính họ, còn hơn
là đối mặt với độc tài Cộng sản; hướng về nhóm trẻ em bụi đời trong thành thị
cũng như ngoài nông thôn săn sóc lẫn nhau và những con trâu đồng.
Với trái tim chai cứng còn lại, lòng tôi thuộc về
những người trốn chạy khỏi lò sát sinh và vùng chiến sự, luôn luôn đi về hướng
Nam mà không bao giờ về hướng Bắc cho đến tận cùng, khi không còn một tấc đất
nào vắng bóng Cộng sản nữa để mà trốn. Tôi đã chứng kiến họ bị thảm sát hay bị
chôn sống trong những ngôi mồ tập thể và mũi tôi vẫn còn phảng phất mùi hôi
thối của những thi thể đang thối rữa.
Tôi không có mặt vào lúc Sài Gòn thất thủ sau khi
toàn bộ các đơn vị Quân Lực VNCH, thường xuyên bị bôi bẩn một cách ác độc bởi
truyền thông Hoa Kỳ, giờ đây bị những đồng minh người Mỹ của họ bỏ rơi, đã
chiến đấu một cách cao thượng, biết rằng họ không thể thắng hay sống sót khỏi
trận đánh cuối cùng này.
Tôi đang ở Paris, lòng sầu thảm khi tất cả những
chuyện này xẩy ra và tôi ước gì có dịp tỏ lòng kính trọng năm vị tướng lãnh
VNCH trước khi họ quyên sinh lúc mọi chuyện chấm dứt, một cuộc chiến mà họ đã
có thể thắng: Lê Văn Hưng (sinh năm 1933), Lê Nguyên Vỹ (sinh năm 1933), Nguyễn
Khoa Nam (sinh năm 1927), Trần Văn Hai (sinh năm 1927) và Phạm Văn Phú (sinh
năm 1927)
. Khi tôi viết đoạn kết này, một ký giả đồng nghiệp
và một loại học giả sinh năm 1975 khi Sài Gòn bị thất thủ, đã tự tạo cho bản
thân một thứ tên tuổi bằng cách bêu xấu tội ác chiến tranh của Mỹ tại Việt Nam.
Vâng, họ thật đáng bị bêu xấu. Đúng, đó là sự thật. Mỹ Lai có thật. Tôi biết,
tôi đã có mặt trong phiên tòa mặt trận khi Trung úy William Calley bị kết án là
có tội. Tôi biết cái tiêu chuẩn đếm xác chết được tôn sùng bởi đầu óc méo mó
của các cấp chỉ huy quân sự cũng như dân sự thời đại Mc Namara tại Washington
và bản doanh Hoa Kỳ tại Sài Gòn đã làm tổn hại hàng ngàn mạng sống của người
dân vô tội.
Nhưng không có hành vi tàn ác nào của các đơn vị
rối loạn Hoa Kỳ và VNCH có thể sánh bằng cuộc tàn sát do lệnh nhà nước giáng
xuống đầu người miền Nam nhân danh Hồ Chí Minh. Những tội ác mà cho đến ngày
nay những kẻ kế thừa thậm chí vẫn không thừa nhận vì không ai có cái dũng cảm
hỏi họ: Tại sao các anh thảm sát tất cả những người vô tội mà các anh rêu rao
là đi chiến đấu để giải phóng họ?
Với tư cách một người Đức, tôi xin được thêm một
đoạn chú thích như sau: tại sao các anh giết người bạn của tôi là Hasso Rüdt
von Collenberg, tại sao lại giết các bác sĩ người Đức ở Huế, và anh Otto
Söllner tội nghiệp mà "tội ác" duy nhất là dạy trẻ em Việt Nam cách
điều khiển một ban nhạc hòa tấu? Tại sao các anh bắt cóc những thanh niên thiện
nguyện Knights of Malta, làm cho một số bị chết trong rừng rậm và số khác thì
bị giam cầm tại Hà Nội? Tại sao các anh không bao giờ tự xét lương tâm về những
hành động đó, theo cách những người Mỹ chính trực trong khi họ đã được xác định
một cách đúng đắn là họ thuộc về phía lẽ phải trong cuộc Đại Chiến Thứ Hai, vẫn
bị dằn vặt bởi cái di sản khủng khiếp để lại vì đánh bom rải thảm những khu dân
cư trong nước Đức và tấn công bằng bom nguyên tử xuống Hiroshima và Nagasaki?
Hồi tưởng lại cuộc thử thách trên con đường mòn Hồ
Chí Minh trong tạp chí Der Spiegel, cô y tá Tây Đức Monika Schwinn nhớ lại cuộc
gặp gỡ với các đơn vị chiến đấu Bắc Việt trên đường xuống phía Nam như là một
trong những kinh nghiệm khủng khiếp nhất. Cô diễn tả cái cường độ của mối hận
thù trên khuôn mặt của những tên lính đó và cô viết chính những tên Việt Cộng
canh chừng phải khó khăn lắm mới ngăn chận họ không giết những người Đức ngay
tại chỗ. Không có ai sinh ra là biết hận thù cả. Sự thù hận chỉ có thể có được
do dậy dỗ. Nuôi dưỡng tính giết người trong lòng thanh niên là một khuôn phép
huấn luyện chỉ có trường phái chủ nghĩa toàn trị là giỏi nhất.
Trong cuốn tiểu sử rất hay nói về tay chỉ huy SS
Heinrich Himmler, sử gia Peter Longerich diễn tả là ngay cả gã sáng lập viên
cái lực lượng tàn độc gồm những tên côn đồ mặc đồ đen cũng khó lòng buộc thuộc
hạ vượt qua sự kiềm chế tự nhiên để thi hành lệnh thảm sát Holocaust
(Longerich. Heinrich Himmler. Oxford: 2012). Chính cái ánh mắt thù hận của
những tên sát nhân Bắc Việt tại Huế làm ám ảnh những người tôi phỏng vấn hơn
cả.
Nhưng dĩ nhiên phải dành nhiều thời gian với họ,
chịu sự đau khổ cùng họ, tạo niềm tin và trò chuyện với họ thì mới khám phá ra
cái cốt lõi của một phần nhân tính con người, một hiểm họa về mặt chính trị và
quân sự vẫn còn quanh quẩn bên chúng ta từ bốn thập niên qua. Chỉ phán ý kiến
về nó từ trên tháp ngà đài truyền hình New York hay các trường đại học Ivy
League thì không bao giờ đủ cả.
Trong một cuốn sách gây chú ý về đoàn quân Lê Dương
Pháp, Paul Bonnecarrère đã kể lại cuộc gặp gỡ lịch sử giữa Đại tá đầy huyền
thoại Pierre Charton và Tướng Võ Nguyên Giáp sau khi Pháp thất trận tại Điên
Biên Phủ (Bonnecarrère. Par le Sang Versé. Paris: 1968). Charton là tù binh
trong tay Cộng sản Việt Minh. Giáp đến thăm Charton nhưng cũng để hả hê. Cuộc
gặp gỡ xẩy ra trong một lớp học trước mặt khoảng 20 học viên đang tham dự một
buổi tuyên truyền chính trị. Cuộc đối thoại giữa hai nhân vật đối chọi nhau đã
xẩy ra như sau:
Giáp: "Tôi đã đánh bại ông, thưa Đại tá!"
Charton: "Không, ông không đánh bại tôi, thưa Đại tướng. Rừng rậm đã đánh
bại chúng tôi... cùng sự hỗ trợ các ông đã nhận được từ người dân bằng các
phương tiện khủng bố."
Võ Nguyên Giáp không ưa câu trả lời này và cấm các
học viên không được ghi chép nó. Nhưng đó là sự thật, hay chính xác hơn: đó là
một nửa của sự thật. Cái nửa kia là các nền dân chủ như Hoa Kỳ đúng là không
được trang bị về chính trị và tâm lý để theo đuổi một cuộc chiến trường kỳ. Sự
nhận thức này, cùng với cách sử dụng các phương tiện khủng bố đã trở thành trụ cột
trong chiến lược của Võ Nguyên Giáp. Hắn đã đúng và hắn đã thắng. Thậm chí nguy
hiểm hơn nữa là ngày nay các chế độ toàn trị đang chú ý đến điểm này.
Cho đến tận ngày hôm nay tôi vẫn còn bị ám ảnh bởi
cái kết luận tôi bắt buộc phải rút ra từ kinh nghiệm về Việt Nam là: khi một
nền văn hóa bê tha hủ hóa đã mệt mỏi về lòng hy sinh, nó sẽ có khả năng vứt bỏ
tất cả. Nó đã chín mùi để bỏ rơi một dân tộc mà đáng lẽ nó phải bảo vệ. Nó còn
thậm chí sẵn sàng xóa đi những mạng sống, sức khoẻ về thể chất và tinh thần,
nhân phẩm, trí nhớ và danh thơm của những thanh niên đã được đưa ra mặt trận.
Điều này đã xẩy ra trong trường hợp các cựu chiến binh Việt Nam. Tác động của
sự khiếm khuyết đã ăn sâu trong các nền dân chủ tự do này rất đáng sợ vì cuối
cùng nó sẽ phá hỏng chính nghĩa và tiêu diệt một xã hội tự do.
Tuy nhiên tôi không thể kết thúc câu chuyện ở đây
bằng điều tăm tối này được. Là một người quan sát về lịch sử, tôi biết là lịch
sử, mặc dù được khép kín trong quá khứ, vẫn luôn luôn mở rộng ra tương lai. Là
một Ki-Tô hữu tôi biết ai là Chúa của lịch sử. Chiến thắng của Cộng sản dựa vào
những căn bản độc ác: khủng bố, tàn sát và phản bội.
Hiển nhiên tôi không biện minh cho chuyện tiếp tục
đổ máu nhằm chỉnh lại kết quả, cho dù có khả thi đi chăng nữa. Nhưng là một người
ngưỡng mộ tính kiên cường của dân tộc Việt Nam, tôi tin là họ sẽ cuối cùng tìm
ra phương cách ôn hòa và các lãnh tụ chân chính để họ có thể thoát khỏi những tay bạo chúa. Có thể sẽ phải mất
nhiều thế hệ, nhưng điều đó sẽ xẩy ra. Trong ý nghĩa này, tôi bây giờ chỉ muốn
xếp hàng vào đoàn xích-lô bên ngoài ga xe lửa Huế là nơi vào năm 1972 chẳng có
hành khách nào đến đó. Chỗ của tôi sẽ ở nơi khác chăng? Tôi còn có gì nữa ngoài
niềm hy vọng?
Uwe Siemon-Netto
Dịch giả: Lý Văn Quý
304Đen - LlttmDịch giả: Lý Văn Quý
No comments:
Post a Comment