Cuối
Đường - 30 Tháng Tư Bẩy Lăm
"Vinh quang một đời của người
cầm quân là một món nợ.
Nợ với tổ quốc, với đồng bào, và với
thuộc cấp của mình!"
(Vương Mộng Long)
Bảy giờ sáng ngày Ba Mươi tháng Tư
1975, tôi dừng quân trên một tọa độ cách thủ đô Sài-Gòn hơn hai chục cây số.
Nơi đây là đoạn cuối của Quốc Lộ 1. Chỉ còn một quãng đường ngắn ngủi nữa thôi,
Quốc Lộ 1 sẽchấm dứt. Tối qua, 29 tháng Tư chúng tôi rút về tới Long-Bình thì
Bộ ChỉHuy Liên Đoàn 24 Biệt Động Quân đã di chuyển đi đâu mất rồi. Tiểu Đoàn 82
BiệtĐộng Quân của tôi như con gà con lạc đàn. Tôi vào máy gọi Liên Đoàn 24 BĐQ,
gọi Tiểu Đoàn 81 BĐQ, gọi Tiểu Đoàn 63 BĐQ, và gọi cả Sư Đoàn 18 BB/ HQ trên
tần số riêng. Tần số nào cũng rối loạn. Tôi không bắt liên lạc được với ai. Nửa
đêm, thình lình máy vô tuyến đưa lệnh, chẳng hiểu của giới chức nào, chỉ vắn
tắt một câu,
-"Các đơn vị cấp tốc rút về
phòng thủSài-Gòn!"
Mờ sáng Ba Mươi tháng Tư, chúng tôi bỏ
Long-Bình, rồi từng bước, rút về hướng thủ đô, để "phòng thủ thủ
đô".Cuối cùng, lết bộ tới Cầu Hang (Biên-Hòa) thì mỏi mệt quá, tôi cho
quân dừng lại nghỉ. Trên Quốc Lộ 1, cách Cầu Hang chừng hai trăm mét, hơn sáu
chục người lính sống sót cuối cùng của Tiểu Đoàn 82 Biệt Động Quân bơ vơ.Vào
giờ này, quân số Tiểu Đoàn 82 BĐQ bách thắng của Quân Khu 2 còn lại chừng nửa
đại đội, với bốn sĩ quan là tôi (Thiếu Tá Vương Mộng Long), Thiếu Úy Thủy,
Trung Úy Trâm, Chuẩn Úy Thiều cùng hơn sáu mươi binh sĩ. Ông Đại Úy Ngũ Văn
Hoàn, Tiểu Đoàn Phó chết đêm 28 tháng Tư. Chuẩn Úy Nguyễn Hữu Phước và Trung Úy
Đăng mất tích. Thiếu Úy Châu đi thụ huấn chưa về. Thiếu Úy Học, Thiếu Úy Hoàng
vắng mặt từchiều 27 tháng Tư, trước khi tiểu đoàn vào vùng. Chuẩn Úy Gấm, Chuẩn
Úy Trung, Chuẩn Úy Lê Văn Phước (Ban 3) cùng Trung Úy Trần Văn Phước thất lạc
trên đường rút lui từ Hố-Nai về Long-Bình ngày hôm qua.
Từ nửa khuya, những đơn vị đồn trú ở
Long-Bình đã bắt đầu theo cơ giới rút đi. Lúc tôi tới Cầu Hang thì những vị tu
hành áo vàng của ngôi chùa Theravada bên kia lộ đang lên xe chạy về hướng
Sài-Gòn. Giờ này họ đã quay trở lại. Họ trở lại chùa, vào phòng, khóa chặt cổng
ngoài. Có một điều lạlùng, khác với những lần rút lui từ Quảng-Đức và từ
Long-Khánh, đó là, trong lần rút bỏ Biên-Hoà này, tôi không thấy dân chúng bồng
bế nhau chạy theo quân đội. Chiếc xe nhà binh sau cùng di chuyển qua Cầu Hang
đã khuất bóng từlâu. Khoảng tám giờ sáng thì không còn ai đi sau chúng tôi nữa.
Sau lưng chúng tôi, thành phố Biên-Hòa có lẽ đã rơi vào tay Cộng Quân. Trước
mắt chúng tôi là Quốc Lộ 1, dài mút mắt, hướng Sài-Gòn. Cuối trời hướng tây có
từng cột khói đen cuồn cuộn bốc lên. Trong vài túp lá, quán cóc bên đường xe
lửa, xác những người bạn Nhảy Dù chết cách đó một vài ngày còn nằm trên sạp
tre. Họ đã hi sinh khi nhổ chốt địch đểlấy lại đoạn đường quanh Cầu Hang. Tôi
không còn tâm trí đâu mà lo chôn cất cho những người bạn đã kiêu dũng nằm xuống
này. Chính tôi cũng không rõ số phận chúng tôi sẽ như thế nào trong vài giờ sắp
tới.
Mười giờ sáng Ba Mươi tháng Tư năm
1975. Tôi thẫn thờ rời cái quán cóc bênđường. Chiếc xe Jeep của Thiếu Tướng Lê
Minh Đảo, Tư Lệnh Sư Đoàn 18 BB đã khuất dạng nơi khúc quanh có vườn cây xanh,
về hướng Thủ-Đức. Tư lệnh đã quay lại tìm tôi, nhưng giây phút cuối cùng, chúng
tôi không kịp gặp nhau. Vào giờphút này, trên máy thu thanh, ông Dương Văn Minh
đang oang oang ra lệnh cho chúng tôi buông súng. Ông Dương Văn Minh gọi kẻ thù
của chúng tôi là "những người anh em" Chỉtrong vòng mấy tiếng
đồng hồ, buổi sáng Ba Mươi tháng Tư năm 1975, cuộc chiến tranh Việt-Nam hai
mươi năm đi vào trang chót. Đứng trên đường tà vẹt, tôi bàng hoàng, ngỡ ngàng
tự hỏi,
-"Có phải ta đang trong cơn ác
mộng hay không?"
-"Sao chiến tranh lại có thể kết
thúc một cách đột ngột, vô lý, và thê thảm như thế này?"
Chua xót thay! Tôi không mơ. Tôi đang
sống với thực tế phũ phàng. Thằng Y Don Near nắm chặt sợi dây ba chạc của tôi,
nó khóc sướt mướt,
-"Thiếu Tá ơi! Sao lại thế này?
Thiếu Tá ơi! Hu...hu ...hu..."
Từ chiếc máy PRC 25, trên lưng nó,
trong tần số liên đoàn, có nhiều giọngđàm thoại lạ. Những hiệu đài không quen,
gọi nhau, chửi thề, quát tháo, than van...
Trước mắt tôi, bên kia đường, lá cờ ngũ
sắc trong sân chùa bay phất phới. Hai bên quốc lộ, những bộ rằn ri còn bố trí,
thế tác chiến sẵn sàng. Những người lính Biệt Động đang chăm chú nhìn cấp chỉ
huy của họ. Họ nhìn tôi với ánh mắt của những đứa con nhỏ đang nép mình trong
lòng mẹ, vào những buổi ngoài trời giông bão, mịt mù sấm sét. Cảnh này quen
thuộc lắm. Những khi tình hình nghiêm trọng, thuộc cấp của tôi thường chờ đợi
quyết định của tôi với những cái nhìn kính cẩn, tin tưởng và thương yêu như thế
này. Trong mười năm chiến trận, đã có đôi lần tôi bị bỏ lại đàng sau. Đôi lần
đơn vị tôi bị dồn vào tình trạng vô cùng nguy khốn, thập tử nhứt sinh, nhưng
thấy con chim đầu đàn còn hiện diện, những người lính dưới quyền tôi vẫn không
xiêu lòng, không bỏ vị trí. Nhưng sáng nay, trước mắt họ, người chỉ huy của họ
đã trở thành một hình nhân, bất động. Thực sự, tôi không biết phải làm gì bây
giờ. Radio chỉ có một chiều; tôi chỉ nghe được; không trả lời được; không hỏi
lại được. Có ai cho tôi biết ông Dương Văn Minh lên chức tổng thống lúc nào
đâu? Tôi biết hỏi ai rằng ông tổng thống này là thiệt hay giả? Theo tôi biết,
ông tướng này, sau khi giết cụ Diệm để tiếm chức, đã bị các nhóm khác hất cẳng
về vườn lâu rồi. Sao tự nhiên ông ta trở thành Tổng Thống Việt-Nam Cộng -Hòa
được nhỉ? Sao một thường dân có thể lên làm tổng thống dễ dàng thế nhỉ? Đùng
một cái, sáng nay, ông ta ra lệnh cho tôi buông súng. Đầu hàng? Đầu hàng cách
nào? Đầu hàng ở đâu? Đầu hàng với ai? Giữa đồng không, tôi đứng chết trân. Mặt
trời lên, thày trò chúng tôi lặng lẽnhìn nhau. Những bàn tay đen đủi Bana,
Jarai, Rhadé đưa lên quyệt nước mắt.
Hướng Tân-Uyên có tiếng trống múa lân
thùng! thùng!...thùng... thùng... nghe lớn dần... lớn dần. Tới Cầu Hang, đoàn
múa lân quẹo phải, về tây. Tôi thấy một cán binh Cộng-Sản vai quàng AK, vác lá
cờ Mặt Trận Giải-Phóng Miền-Namđi đầu, tiếp đó là cái đầu lân nhảy múa, rồi một
đoàn người điên cuồng, la hét, hoan hô, đả đảo, nối theo sau. Tiếng loa vang
vang,
-"Hoan Hô Mặt-Trận Giải-Phóng
Miền-Nam!"
- "Hoan hô!...Hoan hô!"
Thùng!... Thùng!... Hoan hô!...Hoan
hô!... Thùng!... Thùng!... Tiếng loa và tiếng trống lân dập dồn theo gió; lá cờ
Giải-Phóng khổng lồ, xanh đỏ, uốn éo trong gió.
-"Đù má tụi mi! Tụi mi chọc
giận ông phải không?"
Chửi thề xong, ông Hạ Sĩ Phi xả hết một
dây đạn M60 về hướng đoàn múa lân. Chỉ là bắn dọa! Đạn bay cao. Đoàn múa lân
như ong vỡ tổ, chạy tán loạn. Chiếc đầu lân bị vứt chỏng chơ giữa đường. Thằng
VC vác cờ cũng quăng cờ, bò lê, bò càng tìm chỗ tránh đạn.
-"Thôi! Ta đi!" Tôi ra
lệnh cho những người lính cuối cùng của đơn vị.
-"Mình đi đâu bây giờ, Thiếu
Tá?" Thiếu Úy
Thủy băn khoăn hỏi.
-"Thì cứ đi về hướng Sài-Gòn, tìm
xem có ai ở đâu đó, mình nhập vào với họ."
Tôi trả lời Thủy. Mà chính tôi cũng
chẳng biết mình sẽ dẫn đơn vị đi về đâu! Không mục tiêu, chúng tôi đi rất chậm.
-"Thùng!... Thùng!...Hoan
hô!...Hoan hô!" , chúng tôi đi được chừng nửa cây số thì đoàn múa lân lại tiếp tục theo
sau lưng.
-"Hoan hô! Hoan hô cái mảcha tụi
mi!" Hạ Sĩ Phi lại đổ quạu.
-"Cành! Cành! Cành!... Cành!...
Cành! Cành!" Một dây đạn đại liên M60 lại quét ngược về đàng sau. Vẫn chỉ là bắn dọa!
Đạn bay cao. Thằng VC vác cờlại vội quăng cờ núp đạn. Cái đầu lân lại bị ném
chỏng chơ trên mặt đường.Đoàn múa lân lại tán loạn chạy chết.
Chúng tôi tiếp tục lê gót theo đường,
về hướng Sài-Gòn. Cứ đi được vài trăm mét, lại dừng chân nghỉ mệt. Có mục tiêu
nào cho chúng tôi tìm tới đâu mà phải vội vàng? Khi đi ngang khu núi đá vôi
Bửu-Long thì thằng Donđưa ống nghe cho tôi,
-"Có Hai Lẻ Bảy (207) gọi Thái
Sơn!"
Tôi nghe tiếng Trung Tá Hoàng Kim
Thanh, Liên Đoàn Trưởng LĐ24/BĐQ,
-"Thái Sơn! Đây Hai Lẻ Bảy! Anh
cho hai chiếc xe tới đón chú và con cái về Đường-Sơn Quán. Các đơn vị đang tập
trung ở đây chờ lệnh!"
giọng anh Thanh vẫn bình tĩnh, từ tốn,
không có vẻ gì là lo lắng.
Nghe ba tiếng "Đường-Sơn
Quán", tôi chợt nhớ thời 1971-1973, ở BCH/BĐQ/QK2 có một biệt đội
Biên-Vụ (Viễn Thám) do tôi thành lập, huấn luyện, và trực tiếp chỉhuy. Sáu toán
Biên-Vụ trang bị AK, dép râu, nón tai bèo, nghênh ngang, xuôi ngược trên các
tuyến đường Hồ Chí Minh, dọc theo biên giới Việt, Miên, Lào, trong căn cứ địa
609, 613, 701, 702, 740. Những cú nổ mìn phá ống dẫn dầu, phá xe tải, bắt cóc
cán binh, dọc Trường-Sơn Đông, phá Ngầm 24 trên sông Sé San là một mối đe dọa
kinh hoàng hàng ngày đối với đoàn quân xâm lăng vào từphương Bắc. Chuyện chúng
tôi xuất, nhập các mật khu, huấn khu địch, xảy ra nhưcơm bữa. Những tay súng
dưới quyền tôi cũng yêng hùng, ngang tàng như các hiệp sĩ trong phim Hồng-Kông.
Họ quen gọi tôi là "Anh Hai". Bất cứ giờ nào, dù đang lội
trong rừng gai mây Plei-Trap Valley hay trong rừng khọt Nam Lyr (Cambốt), họ
vẫn nghe được tiếng "Anh Hai"của họ, từ một đỉnh núi cao nào
gần đó. Thỉnh thoảng, "Anh Hai" lội rừng chung với họ để thi
hành những nhiệm vụ gay go do Quân-Đoàn II giao phó. Tôi và họ, thương nhau như
anh em cùng mẹ, cùng cha. Khi cuốn phim "Đường-Sơn Đại-Huynh" được
chiếu trên màn ảnh các rạp Diệp-Kính, Diên-Hồng, Thanh-Bình, ở Pleiku, thì đàn
em của tôi gán cho tôi biệt danh "Đường-SơnĐại-Huynh" chỉ vì
tôi có cái tên Long, trùng với tên ông Lý Tiểu Long, tài tử chính của phim này.
Sau khi "Anh Hai" vào
Plei-Me nhận Tiểu Đoàn 82/BĐQ/BP, đơn vị này bắt đầu đánh giặc với cái phong
thái "Đường-Sơn" khiến quân thù vừa nghe tên đã khiếp vía. Tôi
ở Cao-Nguyên mút mùa, làm sao biết đượcở Sài-Gòn cũng có cái quán được đặt tên
như trong phim võ hiệp của Tàu? Tôi mởmiệng định hỏi anh Thanh tọa độ của
Đường-Sơn Quán thì máy liên đoàn đã cúp. Tôi đành cho anh em ngừng lại bên
đường, chờ đợi. Chừng nửa giờ sau, hai chiếc xe be từ hướng Thủ-Đức chạy lên.
Xe ngừng, ông tài xế ló đầu ra lớn tiếng hỏi,
-"Có phải Tiểu Đoàn 82 BiệtĐộng
Quân đó không?"
-"Phải rồi! 82 đây!"
-"Lên xe đi! Tôi chở các ông về
Đường-Sơn Quán!"
-"Có ai ở đó không?"
-"Đông lắm! Có lẽ các ông là những
người tới sau cùng"
Xe trở đầu, chúng tôi lên xe. Tôi,
Trung Úy Trâm và thằng Don ngồi trên cabin chiếc xe đi đầu. Chú Thủy và chú
Thiều đi xe sau. Thành xe be thấp hơn thành xe GMC, không có thế để đứng, những
người lính đành phải ngồi chồm hổm. Ông tài xế xe be, cười rất tươi,
-"Hòa bình rồi! Hòa bình rồi! Hết
đánh nhau rồi các anh ơi!"
Tôi là một người lính nhà nghề, nên dù
cho "hòa bình" có ở ngay trước mắt, hiệu lệnh phản phục kích
xe vẫn được tôi ân cần nhắc nhở cho thuộc cấp. Hai khẩu M60, một của Hạ SĩPhi,
một của Trung Sĩ Tài, được đặt trên nóc buồng lái của hai chiếc xe be.
Xe đang bon bon trên con lộ vắng thì
khựng lại, bò từ từ. Trên mặt lộ, đàng xa, có người dang tay phất phất lá cờ
nửa xanh, nửa đỏ, ra hiệu cho xe chạy chậm lại. Tới gần, tôi nhận ra một du
kích Việt- Cộng, quân phục xanh, mũ tai bèo, dép râu. Tên du kích cột lá cờ trên
cánh tay phải, cờ phất lia, phất lịa. Tay trái nó dương họng khẩu AK 47 hướng
vào đầu xe của tôi. Xe vừa ngừng thì hai bên đường có tiếng la,
-"Bắn! Bắn!... Không cho đứa
nào chạy thoát!"
Rồi thì tiếng súng đủ loại rộ lên.
Những người lính Việt-Nam Cộng-Hoà trên hai chiếc xe be vừa ngừng trên mặt quốc
lộ trở thành những cái bia sống. "Hòa bình" rồi, tại sao người
ta nỡ đang tay giết chúng tôi, khi chúng tôi đang trên đường về điểm tập trung
đểbuông súng?
-"Choác! Choác! ....Choác!"
Tôi tối tăm mặt mũi vì loạt đạn bất
ngờ. Tấm kiếng che gió của chiếc xe tôiđang ngồi lãnh cả chục viên AK của loạt
đạn đầu tiên. Mảnh thủy tinh văng rào rào trên đầu, cổ, mặt mũi tôi. Ông tài xế
gục trên vô lăng. Thùng nước xe bể,hơi nước phun "phì...phì..."che
kín đầu xe. Tôi phóng nhanh xuống đường. Sau một cái lạng mình, tôi đãở đàng
sau thành xe. Tôi rút khẩu Colt 45, vẩy một viên về hướng thằng du kích. Viên
đạn trật mục tiêu. Một BĐQ vừa nhảy khỏi xe, té trên mặt đường. Hình như anh ta
bị trúng đạn, không ngồi dậy được. Tôi giựt khẩu M16 trên tay anh,
-"Đưa tao!"
Tôi kéo cơ bẩm. Đạn tuôn ra khỏi nòng.
Tên du kích giãy giụa trên vũng máu. Lá cờ Mặt-Trận phủ trên mình thằng du
kích. Tôi ghếch mũi súng về lề phải con đường, nơi hàng chục họng AK và B40
đang đua nhau nã đạn vào hai chiếc xe be. "Oành!" một trái B40
nổ ngay trước mặt tôi. Tôi cảm nhận rõ ràng nhiều mảnh B40 và đá, sỏiđã ghim
vào cẳng mình. Chủ nhân khẩu M16 mà tôi đang xử dụng bị bay mất cáiđầu; máu từ
cổ anh xịt thành vòi; phần thân thể còn lại của anh giựt giựt trên mặt lộ. Khẩu
B40 cách tôi chỉ vài sải tay, ngay bên kia đường. Tôi nhắm đầu thằng xạ thủ B40
quạt một tràng M16. Ngón tay tôi tiếp tục siết cò. Địch đông lắm. Chúng đứng lố
nhố trong vườn có những luống đậu, dây leo. Một băng đạn ria đại vào đây cũng
có thể hạ gục cả chục tên. Chúng tôi không dự trù sẽ vướng vào một cuộc giao
tranh vừa bất ngờ vừa điên cuồng này. Chúng tôi ở vào cái thế không biết xoay
trở cách nào để phản công. Thôi, đành liều mạng! Ai đang ở đâu nằm tại đó,
chống trả. Cũng may, đêm qua, ở Long-Bình, chúng tôi có cả kho đạn lận lưng cho
ngày hôm nay.
Đạn địch từ hai bên đường trước mặt tôi
tưới như mưa vào những người lính còn đứng trên xe. Những thân hình rằn ri rơi
rụng xuống mặt lộ.Có người chân vừa chạm đất, đã lăn ra chết. Có đôi người vừa
nhảy ra khỏi sàn xe, còn lơ lửng trên không, tay đã bóp cò, nã đạn về hướng
địch. Hầu nhưai cũng lo bóp cò. Không ai để ý đến thân thể mình đã trúng thương
nơi đâu. HạSĩ Đinh Lít nằm nghiêng dưới gầm xe, tay trái anh đã trúng đạn, xuội
lơ, tay phải ôm cứng khẩu M16. Anh nằm trên vũng máu, mặt anh tỉnh nhưkhông.
Mặc cho đạn địch cài dày dặc xung quanh. Với một tay còn lại, anh liên tục bắn
hết băng đạn này, tới băng đạn khác. Lựu đạn miểng, lựu đạn nổ,lựu đạn cay,
B40, M72, chớp nhoá, "Cành! Cành!..." -"Choác!
Choác!..." - "Xoẹt! Xoẹt!..."-"Oành! Oành!..." Hai
bên đường, địch vẫn tiếp tục ào ra. Xác Việt-Cộng đè lên nhau từng lớp, ngổn
ngang.
-"Cành! Cành! Cành!..." Trên xe, Hạ Sĩ Phi vừa rải từng
tràng M60 về phía quân thù, vừa la rú như người mất trí,
-"Đù má tụi mi! Chết cùng chết!
Ông chết! Tụi mi cũng chết!"
Trưa Ba Mươi tháng Tư, trên đoạn cuối
của Quốc Lộ 1, một cuộc hỗn chiến loạn đả xà bần đã diễn ra giữa thanh thiên,
bạch nhựt. Dân chúng tràn ra đường, xem hai bên đánh nhau. Có đôi ba người dân
thường, liều mạng chạy vào khu giao tranh, mang vác những Biệt Động Quân bị
thương đem đi cứu cấp. Khẩuđại liên của Trung Sĩ Tài trên xe thứ nhì đã được di
chuyển xuống lề đường.Điều lạ là, hai phụ xạ thủ của Tài lại là hai em bé trai,
tuổi khoảng mười hai, mười ba. Như vậy có nghĩa là, người phụ xạ thủ và tải đạn
của Tài đã bịloại ra ngoài vòng chiến.
Đạn nổ rền trời. Đạn bay qua. Đạn bay
lại. Việt-Cộng chết. BiệtĐộng Quân chết. Dân chúng cũng chết! Những người lính
Biệt Động cuối cùng của Plei-Me, Vùng 2, ruột đổ lòng thòng vẫn ôm súng bắn như
khùng, như điên. Hếtđạn, những con cọp giãy chết đành dùng tất cả những gì cha
mẹ ban cho để tự vệ: Nắmđấm, gót chân, đầu gối, khuỷu tay và cả...răng cũng
được xử dụng. Trong phút giây tuyệt vọng, những chiến sĩ Việt-Nam Cộng-Hoà lăn
xả vào địch, la hét, vật lộn, đấm đá, cào cấu, cắn xé... Binh Nhứt Liêu Chí
Cường (gốc Chợ-Lớn) trước khi chết, còn cố ôm cứng một thằng địch để cắn vào mặt
nó. Tôi biết chắc người đó là chú Cường, vì cái khăn len xanh cố hữu, bốn mùa
quấn trên cổ chú (cái khăn của người tình phụ).
Tôi đã bắn hết số đạn mang theo trên
lưng người lính nằm chết dưới chân tôi. Tôi vừa rướn người, quơ quào được một
băng M16 trên sàn xe thìđạn 12,7 ly của địch từ xa ào ào bắn tới. Có tiếng
Trung Úy Trâm thét lên, bên hông trái xe,
-"Thái Sơn ơi! Hình như tank
tới !"
-"Làm gì có tank! Chỉcó 12,7 ly
thôi!"
Đạn phòng không của Việt-Cộng quét sát
mặt đường nhựa, toé lửa khi nổ lần thứ hai. Những viên 12,7 ly nổ
"đúp" (hai lần), chui qua thân người bị đạn, hất thân mình người đó
lên khỏi mặt đất, đục những lỗ to như bàn tay trên thân thể nạn nhân. Trên mặt
lộ là cả chục xác Biệt Động Quân không toàn thây. Khẩu M60 của Hạ sĩ Phi đã gãy
nát. HạSĩ Phi vỡ óc. Hạ Sĩ Đinh Lít cũng vỡ óc. Sáu bánh xe be xẹp lép. Chiếc
xe nằm bẹp xuống mặt đường. Trên sàn xe, trên mặt lộ, chỗ nào cũng ngập máu.
Máu đọng thành vũng, máu chảy tràn xuống ruộng. Bên tôi, không còn khẩu M16 nào
hoạt động. Những Biệt Động Quân đi trên xe thứ nhứt có lẽ đã chết gần hết.
Những người đi trên xe thứ nhì đang là mục tiêu cho khẩu 12,7 ly. Tôi thấy họ
rút chạy vào ruộng mía bên phải quốc lộ. Đám dân đứng xem đánh nhau, bị trúng
đạn cũng nhiều.
Súng của tôi lại hết đạn rồi. Tôi trườn
ra giữa đường để nhặt khẩu AK và giây đạn của tên du kích. Khẩu đại liên của
Trung Sĩ Tài đã gãy làm đôi. Hai em bé tải đạn cho Tài đều chết vì trúng đạn
12,7 ly. Trung SĩTài đang lăn lộn trên vũng máu. Tôi lăn mình vài vòng, tới bên
Tài. Tài nhìn tôi, thều thào,
"Chạy đi!...Ông
thày...chạyđi!..."
Tôi định xốc Tài lên để dìu anh vào lề
đường thì hai mắt anh đã lạc. Đạn bay xém bên mình tôi, nổ "toang
toác!"trên mặt lộ. Chợt ai đó nắm sợi dây ba chạc sau lưng tôi, lôi
tôi chạy về bờ ruộng bên trái quốc lộ.
-"Anh em chết hết rồi. Chạy đi,
thàyơi!" đó là tiếng Trung Úy Trâm.
"Toác!Toác!"- "Chíu!
Chíu!" đạn địch đuổi theo. Tôi cắm đầu chạy. Chạyđược một đỗi thì tôi đuối sức,
lảo đảo. Trâm bèn ghé vai, vác tôi lên lưng. Trâm khỏe như một đô vật. Trâm
cõng tôi, nhanh chân lẩn vào rặng dừa bên trái lộ. Hết vạt dừa, Trâm đặt tôi
xuống đất.
Chúng tôi lội trên mảnh ruộng vừa gặt
xong. Chân tôi vướng gốc rạ. Tôi ngã bổnhào trên mặt ruộng. Trên mặt ruộng có
những đồ chơi của trẻ con vương vãi đóđây. Một con búp bê bằng nhựa, một cái xe
hơi bằng nhựa, những chén bát nhỏ tí, cũng bằng nhựa, màu mè xanh đỏ. Tôi chợt
nhớ tới gia đình vợ con tôi ngoài Ban-Mê-Thuột. Chắc vợ con tôi đã chết hết.
Tôi nghĩ tới đất nước tôi.Đất nước tôi đã mất. Đơn vị tôi đã tan tác. Một phút
bất thần, phẫn uất, tôi rú lên như con thú,
-"Ôi!...Ôi!... Ông Trời
ơi!...Ông Trờiơi!...ơi...ơi..."
Tôi rút khẩu súng Colt ra, kê nòng súng
vào mang tai mình, bóp cò. Bàn tay nhưsắt nguội của Trung Úy Trâm phạt ngang
một cú Karaté. Viên đạn bay lên trời. Khẩu Colt văng trên mặt ruộng.
-"Trâm ơi ! Làm ơn! ...Cho anh
chết! Trâm ơi!..."
Nước mắt dàn dụa, tôi thất vọng, van
lơn. Chẳng nói chẳng rằng, Trung Úy Trâm lầm lì, xốc vai tôi bước đi. Ngoài lộ
vẫn còn lác đác tiếng đạn bắn qua, bắn lại và tiếng lựu đạn nổ. Trâm lột sợi
dây ba chạc của tôi, của anh, mũ sắt của tôi, của anh, vứt trên một gò mả. Trâm
từng bước dìu tôi vềhướng xóm làng gần đó. Giờ đó tôi như con sên yếu đuối, mặc
cho chú Trâm tha lôi đi đâu thì đi. Chúng tôi vừa đụng đầu một con lộ đất thì
một nông dân đạp xe tới chặn đường,
-"Ông Thiếu Tá bị thương
hả?"
Thói quen, ngược đời, đi trận tôi
thường đeo lon trắng. Về nhà tôi lại đeo lon đen. Người dân đã nhìn thấy cặp
lon trắng của tôi. Ông cụ có vẻ động lòng,
-"Ông Trung Úy lấy xe này đưa
Thiếu Tá chạy đi! Luẩn quẩn ở đây lâu không tốt đâu!"
-"Cám ơn cụ!"
Trâm lanh tay nhận chiếc xe đạp thồ từ
tay người dân tốt bụng.
Con lộ đất dẫn tới một văn phòng Hội Đồng
Xã, cửa đóng, khóa ngoài. Rồi con lộ đất dẫn vào một ngôi nhà thờ xứ đạo. Trong
sân nhà thờ, lố nhố nhiều ngườiđang tập trung. Một cái rờ-moọc xe GMC chất đầy
súng ống nằm ngay giữa sân. Đó đây, từng đống quân trang, quân phục VNCH vừa bị
cởi bỏ.Trâm dựng cái xe đạp ngay giữa sân. Chú đứng quan sát một phút, rồi thở
dài,
-"Cởi quân phục vứt đi thì chỉ
còn cái áo mayor với cái quần xà-lỏn. Mình làm sao đây, Thái Sơn?"
Tôi rờ rẫm những khẩu M16 trên chiếc
rờ-moọc, "Lên đạn. Dựng khẩu súng thẳng đứng. Đưa nòng súng vào dưới
cằm. Lách ngón chân vào cò súng. Nhấn ngón chân xuống. Thế là xong!"
Tôi đang suy nghĩ, sắp thử một cú tự
giải thoát nữa, thì chú Trâm van lơn,
-"Thày ơi! Thôi đi thàyơi! Đừng
bỏ em, thày ơi! "
Trung Úy Trâm ôm chặt vai tôi, khóc nức
nở như một đứa bé. Thày trò tôi ôm nhau. "Hu ... hu... hu...."
Những người đứng gần đó, bị nỗi đau đớn
chung lôi cuốn, cũng ôm mặt khóc theo. Như giữa đám ma, cả một khu sân nhà thờ
xứ đạo vang lên tiếng khóc. Một đám ma không có người chết, mà những người đang
đứng đây, chẳng có họ hàng gì với nhau, nhìn nhau, ôm nhau, cầm tay nhau, chúng
tôi khóc vùi.
Một thanh niên cưỡi chiếc Honda 90 từ
hướng Quốc Lộ 1 phóng tới. Anh kè sát bên tôi, nói nhỏ,
-"Thiếu Tá lên xe, em chở đi
trốn."
Trâm đẩy tôi lên yên sau xe, chú leo
lên theo.
-"Chúng nó (VC) chết nhiều lắm!
Chúng nó bắt được mấy anh lính bị thương, tra khảo họ xem cấp chỉ huy của họ là
ai,đâu rồi? Họ khai có ông Thiếu Tá, chắc chết rồi. Chúng kiểm xác chết. Không có
xác Thiếu Tá. Chúng đang túa đi lùng. Em sẽ đưa Thiếu Tá đi dấu. Khôngđể cho
chúng nó bắt."
Xe chạy trong đường làng quanh co một
đỗi thì ngừng. Anh thanh niên dựng xe,đập cửa một căn nhà gỗ, mái dừa,
-"Mẹ ơi! Con đây! Hải đây! Mẹ
mởcửa cho con!"
Cánh cửa hé mở, một bà già, tiếng Bắc
Di-Cư,
-"Đánh nhau, súng nổ ầm ầm mà
mày cứ nhơn nhơn ra đường. Về nhà đóng cửa lại cho tao đỡ lo!"
-"Vâng con về ngay. Mẹ cho con gửi
hai anh này. Có ai hỏi, mẹ cứ nhận là hai con của mẹ. Anh Cả, anh Hai đi lính
vắng nhà lâu rồi, chòm xóm không nhớ mặt đâu! Mẹ làm ơn, làm phúc. Con đi một
chút nữa con về ngay. Mẹ đừng lo!"
Bà mẹ nhìn tôi và Trâm, bà biết ngay
hai đứa chúng tôi là sĩ quan QLVNCH đang bị truy đuổi. Bà cụ không dài dòng hỏi
han. Cụ đưa tay chỉ cho tôi cái tủ đứng góc nhà,
-"Hai đứa lấy quần áo 'si-vin'
của thằng Hải mà mặc vào ngay đi! Đưa quần áo nhà binh cho tao đi dấu!"
Thoáng chốc, tôi và Trâm thành hai anh
dân sự. Bà cụ Bắc Kỳ đã chôn hai bộ rằn ri dưới bùn ruộng muống sau nhà. Trước
sân, anh thanh niên (Hải) con bà cụ đang bơm lốp xe. Tôi và Trâm ngồi uống nước
vối nóng, nghe ngóng động tĩnh. Chợt, ngoài đường có tiếng đối đáp,
-"Anh kia! Anh có thấy hai
thằng lính rằn ri Ngụy chạy qua đây không?" một giọng Nghệ-Tĩnh gặng
hỏi.
-"Có! Chúng nó chạy thẳng sang
hướng Thủ-Đức. Đấy! Con đường quẹo phải! Chổ cây dừa nghiêng..."
Tên Việt-Cộng chỉ huy liếc mắt vào
trong nhà. Thấy tôi và Trâm, nó hỏi trống không,
-"Chứ hai anh kia làm chi rứa?
"
-"Anh Cả và anh Hai của
tôiđó!" Hải nhanh miệng.
-"Thưa ông, hai thằng con tôi
đi lính ngoài miền Trung. Tụi nó mới đào ngũ về nhà được mấy tuần. Xóm này ai
cũng biềt." Bà cụ phân trần.
Thằng Việt-Cộng hết nghi, quay sang
đồng bọn, nó ra lệnh,
-"Nhanh lên! Đuổi theo chúng nó
nhanh lên! Hướng cây dừa nghiêng. Đừng cho chúng nó chạy thoát! Các đồng chí
cẩn thận đấy! Tụi nó có súng!"
Rồi tiếng chân người huỳnh huỵch chạy
đi, xa dần. Bà già lấy khoai lang luộc đưa cho chúng tôi ăn đỡ lòng. Anh Hải rồ
máy xe. Nửa giờ sau anh trở về,
-"Thiếu Tá đi được rồi! Quân
của chúng nó đi hết rồi."
-"Hai con có còn tiền để đi xe về
quê không? Nếu không mẹ cho!" bà cụ ân cần.
-"Cám ơn bác. Chúng cháu còn tiền
đây. Chúng cháu mới lãnh lương. Mải lo đánh nhau, chưa tiêu đồng nào." Tôi cảm động nói không nên lời.
Bà già nhìn chúng tôi, ánh mắt bà chứa ẩn một tấm tình thương xót bao la.
-"Thưa Mẹ! Con đi!"
-"Thưa Mẹ! Con đi!"
-"Anh đi nhé, Hải! Cám ơn Mẹvà em
vô cùng!"
Lần đầu tôi gọi một người không sinh ra
tôi là Mẹ. Tôi gọi bà là Mẹ, không ngại ngùng, như thể bà đã là Mẹ tôi, đã sinh
ra tôi. Tôi và chú Trâm bước ra vườn sau, theo bờ ruộng rau muống, leo lên con
lộ đá đi vềhướng Thủ-Đức. Tôi biết sau lưng tôi, Mẹ và chú Hải còn trông theo.
Hai đứa tôi nhanh chân nhập vào dòng
người hướng về Thủ-Đức. Chợt sau lưng tôi có tiếng gọi,
"Thái Sơn ơi! Trâm ơi!"
Thì ra người gọi chúng tôi là Thiếu Úy
Trần Văn Thủy. Ba thày trò tôi không dám lớn tiếng hỏi han nhau về những gì đã
trải qua. Chúng tôi đi nhưnhững người dân chạy loạn đang tìm đường về nhà, sau
khi im tiếng súng. Chúng tôi vào Thủ-Đức. Nhà nhà, cửa đóng kín mít. Vài chiếc
xe Cảnh-Sát cháy dở dang. Vài tiệm buôn bị đốt phá. Trong phố đã xảy ra cướp
bóc, hôi của. Cổng Trung-Tâm Cải-Huấn Thủ-Đức mở toang. Sân nhà lao vắng tanh.
Tội phạm mới ra khỏi khám đang lộng hành (?) Nhiều người tay mang băng đỏ chở
nhau trên Honda, trên xe Ford Cảnh-Sát. Xe chạy nhanh như bay, qua lại nhiều
lần trên đường phố.
Tới chợ Thủ-Đức, chúng tôi may mắn đón
được chiếc xe Lamb chạy đường Thủ-Đức, Thị-Nghè, giá sáu trăm đồng một người.
Chiếc xe Lamb bò ì ạch vì quá tải. Xe chúng tôi qua mặt từng đoàn người bận
quần đùi, áo thun, chân đất, đang chen vai nhau, đi về hướng thủ đô. Tôi nhận
ra, trong đoàn người áo thun, quần xà lỏn đang đi dưới đường, có Thiếu Tá
Nguyễn Hữu Tài, Tiểu Đoàn Phó Tiểu Đoàn 81 Biệt Động Quân. Có lẽ anh ta cởi bỏ
quân phục nơi Đường-Sơn Quán (?)
Còn cách ngã ba xa lộ Đại-Hàn chừng hơn
trăm mét, chúng tôi phải xuống xe đi bộ vòng qua một khu ao cá và ruộng nước
bên trái quốc lộ, vì giữa đường có một chiếc tank T54 đang cháy. Có vài cán
binh Cộng-Sản Bắc-Việt ôm AK chặn không cho bộ hành và xe cộ qua lại đoạn đường
này. Lội hết vạt ruộng thì thày trò tôi tới xa lộ Đại-Hàn. Lúc này, trên xa lộ,
tank T54 và xe chuyển quân của CSBV đang nối đuôi nhau hướng về Sài-Gòn. Sau
khi cuốc bộmột đỗi, chúng tôi tới cây cầu đúc. Qua cầu, chúng tôi lẫn trong
biển người xuôi ngược.
Chúng tôi về tới Thị-Nghè thì mặt trời
xế bóng. Giữa cầu Thị-Nghè là một chiếc M41 đứt xích vì B40. Chiếc chiến xa nằm
bẹp, bụng xe đè sát mặt cầu. Trên pháo tháp, có vết máu đã khô, nhưng không
thấy xác người chết. Bên cạnh đó, vương vãi vài bộ quân phục Việt-Nam Cộng-Hòa,
dây đạn, nón sắt, ba lô...
Tôi không dám về nhà mẹ tôi, sợ trong
lúc tình hình lộn xộn, chòm xóm biết mình là sĩ quan QLVNCH, sinh chuyện không
hay. Để hai người đàn em chờtrên cầu, tôi đi kiếm nhà người quen, xin cho chúng
tôi tá túc. Nhà anh bạn Nguyễn Gia Hân của tôi nằm ngay chân cầu. Bạn tôi là sĩ
quan Cảnh-Sát, Trưởng Đoàn Phòng Vệ Toà Đại-Sứ Hoa-Kỳ. Nhà khóa cửa. Có lẽgia
đình bạn tôi đã di tản rồi. Tôi trở lại cùng Trâm và Thủy.
Qua cầu, chúng tôi tiếp tục đi. Bây
giờ, trong phố, người qua lại nườm nượp. Bên lề đường, sát tường rào Sở Thú,
những người đi hôi của đang bày bán đủ thứ, chăn màn, quần áo, chén bát, sách
truyện, tranh ảnh, rượu bia...
Quên đời? Chỉ còn cách uống rượu. Năm
trăm đồng một chai Hennessy. Ba thày trò tôi kẹp nách mỗi người một chai. Tôi
vẫy tay chận một chiếc xích lô máy để vào Chợ-Lớn, về nhà Trung Úy Trần Văn
Phước; vừa có nơi lạ để nghỉqua đêm; xóm giềng không biết mình là ai; vừa tìm
xem chú Phước còn hay mất.
Chiều rồi, nhưng nhà chú Phước còn mở
cửa. Trước nhà là cái bảng hiệu "Chiêm-Tinh Gia Trần-Cẩm, Chuyên Bói
Bài, Coi Chỉ Tay, Đoán Vận-Mệnh". Bác Cẩm là thân sinh của chú Phước.
Xe ngừng, tôi vừa bước xuống đất thì Phước từ trong nhà ào ra ôm chầm lấy tôi,
"Ôi! Anh Hai! Anh Hai! Mừng quá!
Anh Haiơi!"
Thì ra trong cuộc lui binh dưới mưa
pháo ngày 29 tháng Tư, Phước bị tụt lại đàng sau, mất liên lạc với tiểu đoàn.
Phước không biết chúng tôi rẽ vào Long-Bình. Phước đi thẳng một lèo, theo xa lộ
về tới Sài-Gòn.
Đêm 30 tháng Tư bốn anh em tôi ngồi bên
nhau, cạn ba chai rượu. Chú Thủy cho tôi biết rằng, ngay đợt tấn kích đầu của
địch, chiếc xe thứ nhì đã bị thương và chết khá nhiều. Nhiều BĐQ bị thương đã
được dân chúng di tản đi cứu cấp. Thiếu Úy Thủy đã cố gắng mở một mũi bọc hông
phải để giải tỏa áp lựcđịch nhưng không thành công, vì địch quá đông. Đến lúc
khẩu phòng không 12,7 ly của địch tham chiến thì Thủy cho anh em phân tán chạy
vào nhà dân. Sau đó Thủyđược dân chúng cưu mang, cho quần áo cải trang rút
chạy. Chú Thủy nói, hình như chú Thiều bị thương ngay từ phút đầu, không rõ số
mệnh ra sao. Sáng Mồng Một tháng Năm 1975, tôi cho Thủy và Trâm một số tiền để
làm lộ phí vềquê. Từ dạo ấy, anh em chúng tôi không còn dịp gặp lại nhau nữa.
Thời gian trôi...
Mười ba năm sau, cũng vào ngày Ba Mươi
tháng Tư, đầu làng, cuối xóm, rợp bóng cờ đỏ sao vàng. Nơi nơi, loa vang vang,
bài ca "Mùa Xuân Trên Thành Phố Hồ Chí Minh". Có một anh
Bắc-Kỳ, tuổi lửng lơ, nửa già, nửa trẻ, đạp xe thồ, đèo theo một cái giỏ,đi rao
bán cá khô trong khu ngoại ô Thủ-Đức. Tới căn nhà gỗ, mái dừa, anh bán cá khô
vừa mở miệng hỏi thăm, một bà người Xứ Quảng đã mau mắn trả lời,
-"Đi rồi! Bán nhà, vượt biên.
Năm, sáu năm rồi!"
-"Xin cám ơn bà. Xin cám ơn
Trời!" anh Bắc-Kỳ mừng rỡ.
Bà chủ nhà nghệch mặt, giương mắt nhìn
anh chăm chăm, mà chẳng hiểu ý anh.
Anh bán cá khô lên xe, đạp từ từ theo
con lộ đất. Xe tới cổng nhà thờ. Gác chuông lặng câm. Sân nhà thờ vắng ngắt.
Trên thánh giá, Chúa cúiđầu. Không biết Chúa có còn nhận ra anh không?
Qua văn phòng Ủy-Ban Nhân-Dân Xã, đến
Quốc Lộ 1, anh quẹo phải, ngừng lại bên đường ngồi nghỉ. Nơi đây chỉ cách
Đường-Sơn Quán vài cây số. Cũng ngày này, mười ba năm trước, các chiến sĩ của
Tiểu Đoàn 82 Biệt Động Quânđã tả xung hữu đột trong trận đánh đẫm máu bi hùng
cuối cùng. Những người nằm xuống đã sang thế giới bên kia trong quân phục rằn
ri, với cái huy hiệu đầu beo, phía trên phù hiệu đó là một bệt tím có chữ
số"82" màu vàng. Trưa nay, có lẽ dân chúng trong vùng còn nhớ tới
họ,nên cắm vội bên đường đôi bó nhang, hương khói.
Anh bán cá khô ngồi xẹp trên lề cỏ,
rưng rưng,
-"Các chú tha lỗi cho
anh..."
Hai bên quốc lộ là rừng bạch đàn. Những
cây bạch đàn lớn lên từ lòng đất từng thấm đẫm máu của những anh hùng Plei-Me.
Hình như trong gió, thoảng như ru, có tiếng ai, thiết tha, não nuột,
-"Thày ơi! Chạy đi!... Thày
ơi!..."
Ngồi bên bìa rừng, đôi mắt Đường-Sơn
Đại-Huynh đẫm lệ...
Vương Mộng
Long – K20
304Đen – Lượm lặt trên trang mạng
No comments:
Post a Comment