30/4/1975 - Ngày
Giải phóng?
Nhiều người Việt sau 1975 còn giữ thói quen dùng từ “giải phóng” trong
các cụm từ “giải phóng Sài Gòn”, “ngày giải phóng”, “trước giải phóng”, “sau
giải phóng”, “quân giải phóng”, v.v…, đó cũng là cách gọi có chủ đích tuyên
truyền của chế độ này sau khi Bắc Việt thôn tính toàn bộ miền Nam.
Từ trước đến nay, chính quyền cộng sản vẫn luôn lập luận rằng nước Việt
Nam là một dải thống nhất từ Bắc chí Nam, tạm thời bị chia cắt tại vĩ tuyến 17
do kết quả hội nghị Geneva 1954, đồng bào miền Nam gánh chịu ách nô lệ và áp
bức của “Đế quốc Mỹ xâm lược” và “ngụy quyền tay sai”; do vậy, quân dân miền
Bắc có nhiệm vụ “giải phóng” miền Nam, thống nhất đất nước.
Tuy nhiên, lập luận nêu trên tự mâu thuẫn và hiển nhiên bị bác bỏ bởi
các sự kiện lịch sử hiện đại mà chúng ta đều đã biết. Dưới đây là một số nhận
định xung quanh cái gọi là “giải phóng” nhân dịp chính quyền đang khơi gợi quá
khứ, mà chính họ luôn hô hào gác lại, bằng các buổi lễ kỷ niệm và diễu binh
chướng mắt trên các đường phố Sài Gòn.
Từ 1955 đến 1974, Trung Quốc đã liên tiếp xác lập chủ quyền và chiếm
đóng các hải đảo thuộc Trường Sa và Hoàng Sa của Việt Nam, nhưng vì lý do nào
hành động của TQ lại không được bộ máy tuyên truyền Bắc Việt đương thời gọi là
“xâm lược”?
Sau khi đánh bại quân Pháp tại Điện Biên Phủ, chính ông Hồ Chí Minh và
đại diện Việt Nam Dân chủ Cộng hòa, dưới áp lực của Trung Quốc, đã đồng ý ký
kết Hiệp định Geneva 1954 chia lãnh thổ Việt Nam thành hai miền, trong lúc đại
diện của chính phủ quốc gia Việt Nam do ông Ngô Đình Diệm làm thủ tướng hoàn
toàn bác bỏ sự phân cắt đó. Nói cách khác, những người cộng sản đã góp tay vào
việc chia đôi đất nước, nên việc tự trao cho mình nhiệm vụ thống nhất đất nước
chỉ là hành động đạo đức giả, che đậy ý đồ chính trị và quân sự riêng.
Gắp lửa bỏ tay người
Thoạt đầu, sau năm 1954, Hoa Kỳ chỉ viện trợ kinh tế và giúp huấn luyện
các đơn vị vũ trang của chính quyền Sài Gòn với mục đích tái lập trật tự xã hội
sau chiến tranh với Pháp. Đến khi chiến sự leo thang do Bắc Việt lén lút chuyển
quân vào Nam, Hoa Kỳ mới chính thức can dự quân sự từ năm 1965. Tuy nhiên, sự
tuyên truyền về “Đế quốc Mỹ xâm lược” đã được những người cộng sản tung ra ngay
từ lúc Hiệp định Geneva còn chưa ráo mực, tức có sự hoạch định cố ý từ trước
nhằm chuẩn bị nguyên cớ phát động chiến tranh. Một hành động “gắp lửa bỏ tay
người” không hơn không kém của giới lãnh đạo Bắc Việt lúc ấy.
Cần lưu ý, gần mười năm trước khi Hoa Kỳ gửi quân sang chiến đấu chống
cộng sản tại miền Nam, quân đội Trung Quốc đã hiện diện ở miền Bắc. Sau đó lần
lượt Liên Sô và Bắc Triều Tiên cũng cử quân nhân sang trực chiến. Vậy nếu sự
kiện Mỹ đưa quân tham chiến, dù được sự chấp thuận của chính quyền Sài Gòn, bị
xem là “xâm lược”, thì hành động của Trung Quốc, Liên Sô và Bắc Triều Tiên nên
gọi là gì? Phải chăng giới lãnh đạo Bắc Việt đã thiếu sáng suốt trong nhận định
về "địch ta" hay vì lý do nào khác?
Hòa đàm Paris 1973 mở đường cho 'hòa bình' và
Hoa Kỳ rút khỏi cuộc chiến ở Việt Nam, nhưng chỉ hai năm sau, miền Bắc đã 'giải
phóng' miền Nam bằng biện pháp chiến tranh.
Trong giai đoạn từ 1955 đến 1974, Trung Quốc đã liên tiếp xác lập chủ
quyền và chiếm đóng các hải đảo thuộc Trường Sa và Hoàng Sa của Việt Nam, nhưng
vì lý do nào hành động của Trung Quốc lại không được bộ máy tuyên truyền Bắc
Việt đương thời gọi là “xâm lược”? Cuộc chiến tranh “giải phóng dân tộc” vì sao
chỉ tập trung vào miền Nam mà bỏ qua mục tiêu giải phóng các hải đảo, vốn cũng
là một phần lãnh thổ thiêng liêng và quan trọng của tổ quốc? Chiến thắng đang
được ca ngợi thiết nghĩ hãy còn dang dở, và liệu có thể hãnh diện với một chiến
thắng như vậy?
Đặt ngược vấn đề
Việt Nam Cộng hòa là một thực thể chính trị và hành chính hợp pháp trên
phương diện công pháp quốc tế, tương tự Việt Nam Dân chủ Cộng hòa. Mọi hành
động chính trị và quân sự của bất kỳ nhà nước nào đều phải đặt trong khuôn khổ
luật pháp quốc tế, nên việc tự trao nhiệm vụ “giải phóng miền Nam” không đương
nhiên biện minh quyền sử dụng vũ lực xâm chiếm lãnh thổ của quốc gia có chủ
quyền khác. Đặt ngược lại vấn đề, nếu cách hành xử của Bắc Việt là đúng, thì
đương nhiên quân đội Sài Gòn cũng có quyền tương tự là mang quân xâm chiếm miền
Bắc? Tuy nhiên, chính quyền Sài Gòn đã không hành xử như vậy, không phải vì
thiếu khả năng, mà do họ tôn trọng luật pháp quốc tế.
Ngay trong nội bộ lãnh đạo Đảng Cộng sản Việt Nam đương thời đã có nhiều
tiếng nói phản đối chiến tranh và đề xuất giải pháp hòa bình hợp tác giữa hai
miền Nam Bắc. Lịch sử thế giới hiện đại cũng cho thấy sự thống nhất nước Đức
bằng con đường thương lượng ôn hòa đã mang lại kết quả tốt đẹp cho dân tộc Đức.
Tuy vậy, chủ trương hòa bình trong Đảng Cộng sản bị dập tắt, phe chủ chiến
thắng thế và muốn tiến hành chiến tranh bằng mọi giá. Và cái giá phải trả để
thống nhất đất nước bằng giải pháp chiến tranh là sinh mạng của hàng triệu
người Việt ngã xuống vô nghĩa, nỗi đau ấy vẫn còn đến tận ngày nay.
Tuy chiến tranh diễn ra khốc liệt, song những đô thị miền Nam vẫn luôn
duy trì sự phát triển phồn thịnh. Điều đó một mặt nói lên rằng chính quyền Sài
Gòn đã duy trì bộ máy quản lý quốc gia rất tốt về phương diện dân sự, bất chấp
hoàn cảnh khó khăn. Mặt khác, liệu có thể tin rằng đoàn quân đói rách đến từ
vùng đất nghèo nàn hơn về kinh tế lại mang sứ mệnh “giải phóng” xứ sở phồn
thịnh hơn? Tình huống đó lẽ ra nên gọi là “cướp” hoặc “chiếm đoạt”, thì thích
hợp hơn. Tất nhiên, chẳng ai tin, trừ phi bị lừa dối, và chính các chiến sĩ Bắc
Việt đã ngây thơ nghĩ rằng đồng bào miền Nam đang rên xiết ngày đêm trong cảnh
nghèo đói và nô lệ (!).
Sự lố bịch của giải phóng
Kẻ “được giải phóng” lẽ ra phải hàm ơn người "giải phóng",
nhưng ngoại trừ những gia đình sống bám hoặc kiếm tiền nhờ vào chế độ cộng sản,
khó tìm thấy thường dân nào ở miền Nam đang chật vật mấy bữa cơm hàng ngày cảm
thấy mang ơn đoàn quân “giải phóng” mỗi khi có dịp nhắc lại biến cố bi thảm đó.
Đấy là chưa nói, nhiều năm sau 1975 hàng triệu kẻ “được giải phóng” đã phải tự
giải phóng mình một lần nữa bằng cách vượt biên, gây nên thảm cảnh thuyền nhân
nhức nhối trong lòng dân tộc. Vậy sự ly tán của các gia đình Việt Nam tưởng đã
chấm dứt khi chiến tranh kết thúc, nhưng lại vẫn tiếp diễn một cách đáng buồn
vì "giải phóng".
Giải phóng bao hàm sự bao dung đối với bên thua cuộc, nhưng thay cho
chính sách hòa giải dân tộc là các trại cải tạo mọc lên như nấm sau cơn mưa để
giam cầm không qua xét xử hợp pháp các quân nhân và công chức của chế độ Sài
Gòn. Mang hận thù và chia rẽ đến giữa lòng dân tộc thì giải phóng ai và vì cái
gì? 40 năm sau biến cố "giải phóng", xã hội ngày càng trở nên vô đạo
đức nghiêm trọng, vậy phải chăng con người đã bị giải phóng khỏi đức hạnh và
văn minh để quay trở về thời kỳ hoang dã?
Thời trung học, tôi cũng quen dùng từ "giải phóng" một cách vô
thức như bao người. Song từ lúc vào đại học, do ngán ngẩm lối giáo dục đầy dối
trá, tôi bắt đầu tự tìm hiểu sự thật lịch sử để trang bị lại kiến thức cho mình
và nhờ đó nhận ra sự lố bịch của hai chữ "giải phóng".
Tất nhiên, lịch sử không có chữ nếu, nhưng giá mà không có cái gọi là
"giải phóng" ấy từ năm 1954, rồi 1975, hẳn đất nước không trì trệ và
lạc hậu như ngày nay, mà thay vào đó người Việt ở các giai tầng xã hội khác
nhau đã cùng nắm tay đưa con thuyền tổ quốc đến bến bờ mới của nền thịnh trị và
xã hội thịnh vượng từ lâu.
Bài viết thể hiện quan điểm riêng của tác giả, một luật sư, cựu tù nhân
lương tâm, đang chịu quản chế ở Sài Gòn. Bài viết được gửi đến cho BBC sau khi BBC mời độc giả, nhà nghiên cứu, nhân
chứng chia sẻ bài viết, thông tin, hình ảnh, cảm tưởng nhân tròn bốn mươi năm
sự kiện 30/4
Ls Lê Công Định
No comments:
Post a Comment