Chết
Sang Hay Chết Rẻ Tiền!
Ðời này ai dại, ai khôn?
Sống mặc áo rách, chết chôn áo lành.
Ca dao
Ðược tin ông bạn già bất thình lình “ra đi”, tôi vội mang vòng hoa đến
chào từ biệt. Ông bạn tôi mặc bộ đồ rất đẹp, bình thản nằm đó. Tôi mừng
thầm cho ông bạn đã “ra đi” một cách nhẹ nhàng trong lúc đang ngủ ngon lành.
Sau đó, trên đường lái xe về nhà, tôi suy tư về khoảng thời gian còn lại trong
đời tôi. Dù sao năm nay tôi đã trên bẩy chục tuổi đầu rồi. Theo thống kê ở
Canada, người đàn ông trung bình có thể sống tới năm 76 tuổi mới được phép
“ngao du vùng tiên cảnh”. Có nghĩa là tôi còn có thể sống được chừng 5 năm nữa.
Vì thế, tôi nghĩ rằng đã đến lúc tôi phải phác họa ngay một “chương trình ngũ
niên” cho tôi, kẻo lúc “ra đi” lại tiếc rẻ khôn nguôi.
Cũng may hiện nay
tôi vẫn còn khỏe mạnh, tiền hưu trí cũng đủ để “phè phỡn với đời”. Vấn đề quan
trọng bây giờ là phải “phè phỡn” làm sao cho “phải đạo”? Chuyện “ong bướm” ư?
Mục này tôi không còn khả năng để “đụng” tới. Những người đến tuổi sắp “ra đi”
như tôi không nên quá tham lam. Chúng ta hãy để đám con cháu có dịp “thi thố
tài năng”, không nên tranh dành với thế hệ trẻ. Biết nhường nhịn như vậy mới
được người đời kính nể.
Ðối với tôi, ăn uống cũng không còn là
một mục khoái lạc đáng để ý tới. Có mấy cái răng hàm thì rụng gần hết, huyết
quản thì bị mỡ bám đầy, máu thì ngọt như mật ong. Theo tôi nghĩ, ông Trời cho
mỗi người một số lượng đồ ăn nhất định để sinh sống trong suốt cả cuộc đời của
mình. Người nào dùng hết “khẩu phần” của mình là phải “ra đi”. Ông Trời đâu có
cho phép chúng ta kéo dài cuộc sống để “ăn ké” vào khẩu phần của người khác.
Nói tóm lại, “ăn nhiều, ăn nhanh, ăn mạnh, vét cho sạch nồi cơm”, không phải là
bí quyết trường sinh. Các bác sĩ ở các nước Âu Mỹ cũng đã nhận ra điều này, nên
đã luôn luôn khuyên già trẻ cũng như nhớn bé phải ăn uống chừng mực. Hơn nữa,
chúng ta cũng đã từng được nghe các cụ nhắc nhủ nhiều lần: “Ăn để mà sống chứ
không phải sống để mà ăn”, hoặc “tham thì cực thân, Phật đã bảo thầm thì chớ có
tham [ăn]”.
Thế là tôi đã mất hai trong bốn mục
khoái lạc mà người đời gọi là “tứ khoái”. Sau cùng, tôi chỉ còn thấy có hai thú
vui hợp với túi tiền và sức lực của tôi: đó là đọc sách, và đi du lịch. Tôi
thấy, đi ngao du những nơi danh lam thắng cảnh là thuận tiện nhất: ban ngày thì
đi tham quan đó đây, tối về khách sạn ngồi đọc sách. Ðối với người có tuổi như
tôi, thời giờ rất là cấp bách, làm “công đôi ba việc” như vậy mới “tranh thủ
được thời gian”. Thế là hai vợ chồng tôi bàn nhau đi ngao du vùng nắng ấm để
trốn mùa lạnh ở Canada. Ôi, mùa đông ở xứ “tình nồng” này, sao mà lạnh thế!
Càng về già, tôi càng cảm thấy lạnh, lạnh từ ngoài vào tới tận đáy lòng con
người.
Tối hôm đó, tôi chui vào mền nằm nghĩ
đến ngày mai tới Miami sưởi nắng... Ðang say sưa mơ màng thì vợ tôi đánh thức:
– Dậy đi anh. Ðến giờ ra phi trường
rồi, máy bay không đợi anh đâu. Em đã chọn cho anh một bộ quần áo rất đẹp để
mặc đi đường.
Bỗng nhiên tôi nhớ đến ông bạn già của
tôi đã được Nhà Ðòn mặc cho một bộ quần áo rất đẹp trước khi lên xe “ra đi”.
Tôi nhìn vợ tôi xếp quần áo của tôi vào va-li, tôi vội hỏi:
– Ủa, em không đi cùng với anh hay
sao?
– Em còn bận công việc nên đành phải ở
lại. Anh đã đến tuổi có quyền được đi ngao du, nay đây mai đó. Anh cứ đi chơi
thanh thản là em mừng rồi.
Cuối cùng tôi đành phải lên xe taxi ra
phi trường một mình. Tôi quay đầu nhìn lại mái nhà thân yêu của tôi cho đến khi
nó mờ dần sau màn tuyết trắng, mầu trắng tang tóc làm tôi khẽ rùng mình. Phải
chăng kẻ “ra đi” thường nghĩ tới kẻ “ở lại”?
Quả thiệt máy bay không đợi tôi. Tôi
vừa ngồi xuống ghế thì máy bay bắt đầu cất cánh. Lòng tôi buồn rời rợi vì tôi
đang bay về vùng nắng ấm trong khi họ hàng thân yêu tôi còn phải ở lại vật lột
với băng tuyết từ Bắc Cực ù ù thổi về. Khi máy bay hạ cách xuống phi trường
Miami, xe của hãng du lịch đã chờ sẵn để đưa tôi về khách sạn R.I.P (“Resort of
International Peace”, mà tôi tạm dịch là “Lưu Xá Hòa Bình Thế Giới”). Mới nhìn
thoáng qua tôi đã nhận thấy phong cảnh thành phố này quả có đẹp, đúng như những
bích trương quảng cáo du lịch đã trình bày. Hai bên đường là những cây cao vời
vợi, cành lá um tùm. Xung quanh khách sạn của tôi là những biệt thự xinh xắn
nằm sau những hàng rào hoa đủ mầu đủ loại.
Ngồi uống trà trong vườn của khách
sạn, tôi thoải mái nghe chim hót líu lô và nhìn mấy con bướm bay tung tăng
trong nắm ấm. Một lát sau, người hướng dẫn du lịch mời tôi lên xe đi xem phong
cảnh thành phố. Ðó là một chiếc xe buýt chở chừng 50 du khách đủ loại người. Ða
số là người có tuổi như tôi, nhưng cũng có vài người rất trẻ. Ngoài một số
người Mỹ ra, tôi còn nhận thấy vài người ngoại quốc mặc quần áo cổ truyền của
nước họ. Ông tài xế cho biết là xe sẽ dừng nhiều nơi nổi tiếng trong thành phố,
du khách có thể xuống bất cứ chỗ nào để tham quan, một giờ sau đó xe sẽ trở lại
đón để đưa đi thăm viếng nơi khác, hoặc chở về khách sạn R.I.P.
Xe đi vòng vòng trong thành phố và
vùng ngoại. Xe ngừng nhiều nơi nổi tiếng của vùng này: có những khu biệt thự
sang trọng lộng lẫy, có những bãi cát vàng óng ả chạy dài xuống biển xanh mầu
ngọc thạch, có những trung tâm thương mại xầm uất, v.v... Mỗi khi xe ngừng lại,
thì có vài du khách tíu tít xuống xe. Khi xe tới Tropical Garden (Vườn Bách
Thảo Nhiệt Ðới), tôi bèn xuống xe vì muốn sống lại trong khung cảnh xanh tươi
của đất nước tôi khi xưa. Tôi sung sướng khi thấy lại những cây đa cổ thụ cao
ngất từng mây, những cành hoa phượng vĩ rực rỡ dưới nắng chan hòa, những con
chuồn chuồn vui đùa giữa những cụm bông sen trên mặt hồ phẳng lặng...
Tôi đang thẩn thơ hưởng khung cảnh
tĩnh mịch gần như thoát tục, thì bỗng nhiên nghe có tiếng người gọi tên tôi.
Quay lại thì thấy anh Tùng, người bạn chí thân của tôi từ ngày học đệ thất. Ðã
hơn bốn chục năm rồi bây giờ mới lại gặp nhau. Chúng tôi bắt tay nhau thiệt
lâu, mừng mừng tủi tủi. Chúng tôi dạo chơi dưới bóng mấy cây liễu già bên hồ,
kể lại cho nhau nghe những kỷ niệm vui buồn khi xưa. Sau khi học hết bậc trung
học, anh Tùng đi động viên, nay đây mai đó, theo tiếng súng của thời cuộc ở nơi
tiền tuyến. Còn tôi được may mắn được đi ngoại quốc du học. Tuy vậy, chúng tôi
vẫn liên lạc mật thiết với nhau bằng thư từ. Lá thư cuối cùng của anh tôi nhận
được hồi cuối năm 1967. Trong thư anh cho tôi biết là anh đang hành quân ở
Quảng Trị, và trong vài tuần nữa anh được nghỉ phép để về Cần Thơ ăn tết và
nhân tiện cưới vợ luôn một thể. Thế rồi trận Mậu Thân bất thình lình xẩy ra. Từ
đó tôi không nhận được tin tức gì về anh. Tôi cho rằng anh đã bị tử trận. Bây
giờ lại gặp được anh, tôi mừng muốn khóc. Trong khi đi bách bộ trong vườn,
chúng tôi nói chuyện huyên thuyên, không để ý đến thời gian. Ðến lúc xe buýt
tới, chúng tôi đành phải chia tay nhau. Tôi lên xe ra đi. Anh ở lại vì anh muốn
tiếp tục cuộc du ngoạn trong vườn mà anh ví “như vườn Tao Ðàn ngày xửa ngày
xưa, nơi mà chúng mình thường tới chơi trong những giờ trốn học”. Bắt tay anh,
tôi hẹn với anh ngày tái ngộ. Anh cười vui vẻ, rồi thốt ra một câu triết lý
bâng quơ:
– Vũ trụ này thực ra bé nhỏ lắm, chúng
mình đi loanh quanh, luẩn quẩn, mãi rồi sẽ có ngày cũng lại gặp nhau.
Ðến lúc lên xe chạy ra ngoài phố, tôi
mới sực nhớ là đã quên hỏi địa chỉ của anh. Tuổi già lẩm cẩm, hay quên. Thiệt
là vô tích sự!
Xe chạy vào khu ăn chơi buôn bán nổi
tiếng trong vùng. Tôi tò mò xuống xe đi xem cảnh “ngựa xe như nước, áo quần như
nêm.” Ðường phố đông nghịt những người. Họ đi ngắm nhau, hoặc ngắm những hàng hóa
đắt tiền bầy trong tủ kính. Tôi mỉm cười nhìn một bà Mỹ to béo đang chăm chú
nhìn một bộ áo dạ hội mỏng dính với bảng giá “Special Sale: 299.95 dollars.”
Tôi cảm thấy tội nghiệp cho cái “cái cối xay” đang bị thôi miên bởi cái áo “hớ
hênh,” vừa hở lưng đằng sau, vừa hở rún đằng trước. Ðã thích ăn cho mập xù, lại
còn thích mặc quần áo khiêu gợi! Ðang ngẫm nghĩ về cái ham muốn quá đáng của
con người, thì tôi đã bước tới trước cửa một tiệm kim hoàn. Tôi đứng ngắm những
vòng ngọc đủ mầu, những dây chuyền vàng chạm chổ tinh vi, những chuỗi hạt trai
sáng rực dưới ánh đèn trong tủ kính. Bỗng nhiên có tiếng ồn ào trong tiệm, rồi
có bóng một thanh niên chạy vọt ra ngoài, đằng sau là những tiếng hô hoán ầm ĩ.
Hai tiếng súng nổ liên tiếp làm tôi giật mình quay lại. Tôi thấy một cô cảnh
sát cầm súng thản nhiên đứng nhìn người thanh niên đang nằm quằn quại trên vũng
máu, tay còn nắm chiếc đồng hồ vàng nạm kim cương. Khách bộ hành tò mò nhìn
cảnh chết chóc như đang xem chương trình Miami Vice trên ti-vi. May sao vừa lúc
đó thì xe buýt của hotel tới, tôi vội chạy lên xe, để trốn cảnh si mê và tàn
bạo.
Xe ngừng bánh nhiều nơi cho du khách
xuống du ngoạn. Nhưng tôi vẫn ngồi yên trên xe vì tôi thấy mất hết cảm hứng đi
ngắm cảnh phồn hoa giả tạo. Cuối cùng xe cũng về tới khách sạn R.I.P khi thành
phố bắt đầu lên đèn. Tôi mệt mỏi xuống xe và rất ngạc nhiên khi thấy bố mẹ tôi
mừng rỡ chạy ra đón tôi, và ôm tôi vào trong lòng. Mẹ tôi vỗ về tôi, rồi nhẹ
nhàng trách tôi:
– Con mải đi chơi ở đâu mà mãi bây giờ
mới về, làm bố mẹ mong chờ.
Tôi cảm thấy hối hận vô cùng, tôi gục
đầu vào vai mẹ tôi khóc nức nở như ngày tôi còn bé...
Bỗng nhiên tôi nghe văng vẳng có tiếng
gọi tôi:
– Dậy đi anh. Anh nằm mơ cái gì mà
khóc lóc thảm thê vậy?
Tôi chợt bừng tỉnh, nước mắt hãy còn
rỏ xuống gối. Sau đó, tôi nghĩ nhiều lắm. Tôi nghĩ đến ông bạn già của tôi mặc
bộ quần áo rất đẹp đang nằm trong nhà quàn. Tôi nghĩ đến chuyến du ngoạn mà tôi
đã thực hiện được trong giấc mơ. Tôi nghĩ đến giờ phút kỳ lạ cho phép tôi gặp
lại những thân nhân của tôi đã bỏ tôi “ra đi” lâu lắm rồi. Tôi nghĩ đến cái
sống và cái chết. Sau khi tôi “ra đi,” tôi sẽ đi về đâu? Là “người trần mắt
thịt,” làm sao tôi biết được. Chỉ những “chuyên gia” nghiên cứu về linh hồn hay
duyên kiếp mới “biết rõ ràng” những chuyện gì “chắc chắn” sẽ xẩy ra khi chúng
ta sang “bên kia thế giới.” Những vị này thường cho chúng ta biết rằng: sau khi
chết đi, con người sẽ khốn khổ lắm nếu không biết thành kính thờ phụng Chúa
hoặc ra chùa tụng kinh giải oan. Có người lại nghĩ rằng sau khi chết đi, con người
sẽ trở thành cát bụi, chứ không đi đâu hết. Trái lại, giấc mơ kỳ lạ mà tôi đã
trình bày ở trên làm cho tôi nghĩ rằng cuộc sống cũng như sự chết không khác gì
một cuộc ngao du. Linh hồn chúng ta có thể là một hành khách trên một chuyến xe
buýt du ngoạn. Xe buýt tới thì ta phải lên xe “ra đi.” Làm sao mà biết được xe
sẽ ngừng ở nơi nào. Khi xe tới trạm, ta phải xuống. Trạm xe bus có thể là một
khu “Vườn Nhiệt Ðới,” có thể là một trung tâm thương mại phồn thịnh giả tạo đầy
si mê và tội lỗi, có thể là một khu tối tăm, nghèo nàn, có thể là một ổ trộm
cướp đầy sì ke, ma túy...
Nếu cho sự chết là một du ngoạn, tại
sao chúng ta không sửa soạn cuộc “ra đi” của chúng ta cho chu đáo. Khi chúng ta
vượt biên, chúng ta sửa soạn rất kỹ càng. Nhưng khi chúng ta đến tuổi phải “ra
đi,” chúng ta lại không tính toán như người vượt biên, dù rằng chúng ta vẫn còn
đủ tỉnh táo để sửa soạn cuộc “ngao du” của chúng ta. Chúng ta không chịu sửa
soạn trước khi “ra đi” vì chúng ta sợ chết, nên chúng ta không dám nghĩ đến cái
chết cho đến khi chúng ta thở hơi cuối cùng. Thế là chúng ta “thẩy” trách nhiệm
đó cho những người thân thiết có nhiệm vụ cáng đáng thân xác của chúng ta.
Trong lúc “tang gia bối rối,” người nào càng thân thiết với chúng ta bao nhiêu,
thì lại càng bối rối bấy nhiêu. Khi bối rối như vậy, làm sao họ có thể tính
toán một cách hợp lý được. Kết quả là người thương yêu của chúng ta sẽ bị các
Nhà Ðòn lợi dụng triệt để. Chuyện này rất dễ hiểu: vì thương tiếc “người ra
đi,” nên những người thân thích tưởng rằng càng tiêu nhiều tiền cho chuyện ma
chay bao nhiêu, thì “người ra đi” càng sung sướng bấy nhiêu. Thiệt là nhầm to.
Những bài kinh giải thoát, những sớ cầu siêu không hóa giải được những tội lỗi
của con người. Một cuộc mai táng huy hoàng không làm cho “người ra đi” được “mát
mặt” thêm một chút nào. Tuy vậy, những người thân thích luôn luôn muốn có một
đám tang thiệt là linh đình và tốn kém để tỏ lòng thương tiếc của mình đối với
“người ra đi.” Trong trường hợp này, “người ra đi” chỉ còn biết thở dài (sau
khi thở hắt ra). Rồi người đến viếng cũng muốn mua một vòng hoa thiệt to, thiệt
đắt tiền để tỏ tình bạn hữu với “người ra đi” và nhất là để chứng minh cho bà
con lối xóm biết rằng mình là “người đàng hoàng, có thủy, có chung.” Thấy cảnh
này, “người ra đi” cũng lại thở dài, chỉ muốn thốt ra câu từ biệt: “Này bạn ơi,
đã quá trễ rồi. Sẽ có ngày tái ngộ,” và “tức cảnh” làm bài thơ như sau:
Khi một thằng nằm xuống
Lại có thằng luống cuống đứng lên
Vái lạy thằng nằm xuống
Hy vọng khi mình nằm xuống
Lại có thằng khác luống cuống đứng
lên.
Ðiều mà chúng ta biết chắc là đa số
những người sắp “ra đi” đều lo lắng thiết tha cho “người ở lại,” và nghĩ rằng
mình còn có thì giờ thu xếp mọi việc trước khi “ra đi.” Tiếc thay, khi xe buýt
bất thình lình tới đón đi “ngao du,” chúng ta vội vàng lên xe nên không giúp gì
cho những “người ở lại.” Trong khi đó, “người ở lại” đau đớn muôn phần. Khi bố
mẹ tôi lần lượt qua đời, một mình tôi “ở lại,” tôi lịm người đi vì thương tiếc.
Rồi khi tôi loáng thoáng được tin anh bạn chí thân của tôi bị tử thương, tôi
buồn ngẩn ngơ, tội nghiệp cho số phận long đong của người trai thời loạn. Tôi
bối rối vì tôi cảm thấy hối hận vì tôi cho rằng mình đã cư xử không đầy đủ tình
nghĩa đối với “người ra đi,” không có dịp tổ chức một đám táng trọng thể đưa
người quá cố sang “Bên Kia Thế Giới.” Ngoài ra, trong thâm tâm, tôi cảm thấy lo
sợ vì không biết những thân nhân của tôi sẽ đi về đâu: có được “về với Chúa
không”? có thoát khỏi “vòng nghiệp chướng” hay không? Ðó là những phản ứng tự
nhiên của những “người ở lại.” Vì thế, chúng ta thường thấy những vụ ma chay
linh đình để “người ở lại” có dịp “trả nghĩa” đối với “người ra đi” (thà “trả
nghĩa” trễ hạn, còn hơn là bị mang tiếng “bạc tình, bạc nghĩa”). Chúng ta lại
còn thấy trong những cuộc cúng lễ nguy nga, mọi người thiết tha cầu xin Trời
hay Phật giúp “người ra đi” được lên Thiên Ðàng hay vào Cõi Niết Bàn. Mọi tín
đồ đều “biết chắc chắn” rằng một linh hồn đầy tội lỗi khó có thể siêu thoát
được nếu thân nhân không thành khẩn cầu xin Ðấng Tối Cao nhủ lòng khoan hồng
đại lượng với “người ra đi”! Phải chăng vì chúng ta nghĩ rằng cái quá khứ của
“người ra đi” thiếu đạo đức, nên chúng ta mới phải làm lễ cầu siêu cho “người
ra đi” như vậy? Thiệt là tội nghiệp cho người “ra đi”: Ðã “nằm xuống” rồi mà
còn bị người đời gán cho cái tội “thiếu đạo đức.”
Nói cho cùng, “người ở lại” đáng
thương hơn “người ra đi.” Trong khi “người ra đi” thản nhiên nằm đó, thì “người
ở lại” không những bị xúc động tinh thần mà còn phải xả thân cáng đáng công
việc tiễn đưa “người ra đi.” Vì thế, tôi không thắc mắc về việc tôi sẽ “ra đi,”
nhưng tôi nghĩ rất nhiều, và lo lắng rất nhiều cho “người ở lại.” Tôi muốn
“người ở lại” khỏi phải quàng lên vai một gánh quá nặng nề về tinh thần cũng
như vật chất khi tôi “nằm xuống.” Có lẽ ít người nghĩ như tôi và làm như tôi,
vì đến lúc gần ngày tận số, mỗi người nghĩ một kiểu, và người nào cũng cố gắng
làm những việc mà mình cho rằng thỏa đáng nhất. Do đó, tôi không dám khuyên ai.
Những điều tôi trình bày sau đây chỉ là một thí dụ không điển hình, một lối
nhìn đời “không giống ai.”
Trước hết, tôi không muốn những bạn bè
thân thuộc tôi quá u sầu về chuyến “ngao du” của tôi. Do đó, tôi đã trình bày
cho mọi người biết rằng khi “chuyến xe buýt” tới, tôi sẽ thản nhiên “ra đi” như
tất cả mọi người khác đã từng “ra đi.” Tôi sẽ “đi” về đâu? Có lẽ tôi sẽ về với
bố mẹ tôi. Có lẽ tôi sẽ ngao du vùng tiên cảnh cùng với bạn bè tôi. Dù sao đi
chăng nữa, tôi không cần biết tôi sẽ “đi” đâu, vì có biết hay không biết thì
tôi và những người thân thuộc của tôi cũng chẳng làm được gì cả.
Sau đó, việc tôi phải làm trước khi “ra
đi” là sửa sang lặt vặt trong nhà, vì vợ tôi không phải là một người khéo tay
biết sửa chữa nhà cửa. Ngoài ra, những gì của tôi mà tôi thấy không cần dùng
cho bản thân tôi hoặc cho “người ở lại,” tôi mang đi cho người khác, hoặc đổ
vào thùng rác. Khi tôi quẳng đi gần hai ngàn quyển sách của tôi, tôi cảm thấy
nhẹ nhõm trong người. Trái lại, vợ tôi rất xúc động, và hỏi tôi:
– Những cuốn sách này là kỷ niệm gần
40 năm dạy học, tại sao anh vất đi?
– Anh không cần nữa.
– Thì cứ để đấy, đôi khi anh muốn đọc
lại thì sao?
– Ðọc đi, đọc lại làm gì? Người ta lại
tưởng rằng anh dốt, học mãi mà chưa thuộc bài.
Sau khi dọn dẹp nhà cửa, tôi bắt đầu
nghĩ đến phí tổn chôn cất. Tôi thấy ở Ottawa mấy gia đình mà tôi quen biết đã
chi phí trên 15 ngàn dollars cho mỗi vụ ma chay. Tôi tính nhẩm trong đầu thì
thấy rằng chỉ trong vài chục năm nữa, cộng đồng người Việt ở Ottawa (hơn bốn
ngàn nhân mạng) sẽ phải chi cho Nhà Ðòn và nghĩa địa một tổng số vào khoảng 60
triệu dollars (không kể tiền chi cho các vị tu sĩ cúng lễ, cùng tiền bạn bè bỏ
ra mua hoa phúng viếng). Như vậy, phí tổn ma chay cho nửa triệu người Việt đang
sinh sống ở Bắc Mỹ sẽ lên tới gần 8 tỷ dollars. Thiệt là oai hùng! Thiệt là vĩ
đại!
Ðể biết rõ chi tiết của vấn đề, tôi
bèn mời một đại diện Nhà Ðòn quen biết ở Ottawa tới bàn chuyện ma chay cho tôi.
Ông “tiếp thị” (salesman), quần áo chỉnh tề, mặt trang nghiêm và đầy kính cẩn,
ăn nói nhẹ nhàng và từ tốn trong khi trình bày giá cả cho tôi nghe. Tập tài
liệu về giá biểu in rất đẹp như tờ thực đơn của một tiệm ăn sang trọng ở Paris
(năm sao). Ðiều quan trọng mà mọi người nên biết là “người mua” không được kỳ
kèo về giá cả, vì Nhà Ðòn làm ăn đàng hoàng “trước sau như một,”.
Tôi đọc kỹ tờ giá biểu, rồi tham khảo
với các bạn bè, tôi thấy rõ phí tổn nặng nề mà “người ở lại” phải chi cho Nhà
Ðòn ở Canada (có lẽ cũng tương tự như ở bên Mỹ). Ðể có một thí dụ cụ thể, tôi
xin liệt kê sau đây các “món hàng” căn bản mà Nhà đòn Tubman đã trình cho tôi:
(1) Dịch Vụ Chuyên Môn (Professional
Services)
• 900$ – dịch vụ do các chuyên viên
Nhà Ðòn cung cấp (professional and support staff services);
• 250$ – giấy tờ lên quan đến vấn đề
khai tử (documentation);
• 125$ – dịch vụ ở nghĩa địa hoặc công
việc trao lọ đựng tro cho thân nhân (gravesides service or delivery of urn as
arranged).
(2) Dịch Vụ Chăm Lo “Người Ra đi”
(Prrofessional Care of Deceased)
• 200$ – tắm rửa và làm vệ sinh cho
“người ra đi” (sanitary care of deceased);
• 570$ – ướp xác và trang điểm “người
ra đi” (embalming and cosmetology of deceased).
(3) Phòng Ốc Và Dụng Cụ
• 400$ – xử dụng Nhà Ðòn (basic use of
funeral home);
• 990$ – xử dụng phòng thăm viếng,
phòng làm lễ và những dụng cụ (visitation room, chepel, and/or service
equipment);
• 225$ – xử dụng phòng sửa soạn và gìn
giữ xác “người ra đi” (use of facilities for preparation of deceased and/or
shelter of remains).
(4) Xe Cộ Và Vận Chuyển (Automotiles
and Transportation)
• 295$ – chuyển xác về Nhà Ðòn
(transfer from place of death ố radius 40 km);
• 200$ – xe cộ cần dùng cho các nhân
viên Nhà Ðòn (vehicles required for administrative tasks, clergy, funeral
director);
• 270$ – xe chở quan tài ra nghĩa địa
(funeral coach);
• 125$ – xe limousine chở thân nhân.
Chi phí căn bản cho Nhà Ðòn là
$5,604.03 (gồm cả thuế)
(5) Chi Phí Cho Thành Phố
• 75$ – khám nghiệm tử thi.
• 52$ – thuế vệ sinh cho thành phố.
(6) Phí Tổn Mai Táng
• 3,700$ (trung bình) – Tiền mua quan
tài tùy theo loại sang hay hèn, đúng theo giai cấp: từ thứ rẻ nhất là vải quấn
xác (890$) cho tới quan tài rẻ tiền bằng gỗ ván ép (1,695$), tới loại quan tài
vừa đẹp vừa bền dành cho các nhà giầu thích sài sang (11,000$);
• 5,500$ – Tiền mua chỗ “An Nghỉ Ngàn
Thu” (R.I.P - Rest In Peace ) tại nghĩa địa: miếng đất to hơn cái giường đáng
giá khoảng chừng 5,500$;
• 1,000$ – Tiền dựng mộ bia tùy theo
túi tiền của mỗi người (từ 1,000$ cho tới 5,000$, hoặc nhiều hơn nữa).
Chi phí mai táng trung bình khoảng
chừng $13,000
Tôi đọc tờ giá biểu thấy nhân dân ta
bị Nhà Ðòn và Nhà Nước làm tiền một cách rất là quy củ. Không những thế, ông
“tiếp thị” lại còn khuyến khích tôi “mua” nhiều món “hàng” khác vừa đắt tiền,
vừa... vô dụng. Tôi bèn chặn lại với một câu hỏi rất ư là “rẻ tiền”:
– Mai táng kiểu nào rẻ tiền nhất?
Hắn ngỡ ngang vì đang “rao hàng” thì
bị cụt hứng. Nhưng ngay sau đó, hắn mỉm cười, rồi nhìn tôi một cách rất ư là
đại lượng:
– Ông thích chơi trò rẻ tiền thì ông
nên chọn con đường hỏa táng, vì ông sẽ không mất tiền chi phí chôn cất và mua
đất ở nghĩa địa.
– Ngoài tiền hỏa táng ra, còn có mục
chi phí nào khác nữa không.
– Có chứ. Thân xác của ông sẽ được tắm
rửa, thoa son đánh phấn, và được đặt trong một cỗ quan tài thiệt đẹp. Chúng tôi
sẻ tổ chức linh đình cho ông. Ai trông thấy nằm đó cũng phải thèm cái địa vị
của ông.
– Nếu tôi thích đi con đường hỏa táng,
thì tôi đâu có cần mua quan tài làm gì cho tốn tiền?
Lần này hắn nhìn tôi một cách khinh
thường ra mặt, và nói với một giọng mỉa mai:
– Ông cũng cần phải được trang điểm và
nằm trong một cỗ quan tài đàng hoàng khi bạn bè thân thuộc đến thăm viếng ông
lần cuối cùng. Trưng bày thân xác ra như vậy mới là người đàng hoàng chứ! Tuy
nhiên, nếu ông thích bủn xỉn, thì cũng không sao. Chúng tôi cũng có thể chiều
ông được. Ðáng lẽ ông mua một cỗ quan tài rẻ tiền, ông có thể thuê một cỗ quan
tài sang nhất hạng. Cỗ này đáng giá 11,000$. Những người giầu sang mua loại
này, rồi mang đi chôn hay đốt cùng với cái xác của họ. Nhưng nếu ông mướn cỗ
quan tài này, để nằm vài ba bữa, lấy le với bà con lối xóm, thì ông chỉ phải
trả tiền thuê là 2,850$. Thiệt là rẻ mạt! Làm sao mà người đời biết được rằng
ông là người hà tiện, đến lúc “nằm xuống” mà còn không dám bỏ tiền ra mua một
cỗ quan tài để nằm cho thoải mái.
– Nhưng tôi không muốn “trình làng
nước” cái thân thể xám ngắt của tôi cho mọi người chiêm ngưỡng thì sao?
Hắn thở dài đến sượt một cái như một
thầy giáo làng nhìn thằng học trò bướng bỉnh lại còn có tật cù nhầy:
– Làm như vậy cũng bớt được vài ngàn:
tiền son phấn, tiền thuê quan tài, tiền thuê Nhà Ðòn v.v.. Mà ông cũng không
cần phải chi cho các vị tu sĩ đến tụng kinh gõ mõ tùm lum trong Nhà Ðòn của
chúng tôi làm gì. Thế là ông đỡ thêm được vài ba trăm nữa. Ðối với hạng người
“rẻ tiền” như ông, đỡ được trăm nào hay trăm đó, có phải không?
Thằng cha “tiếp thị” cho tôi là người
bủn xỉn nên có vẻ bực mình lắm. Hắn chỉ muốn thu được nhiều tiền cho chủ Nhà
Ðòn để được ăn nhiều tiền hoa hồng do gia đình “người ra đi” cung phụng. Vì
thế, mỗi lần tôi bớt được món chi phí nào là hắn có vẻ đau đớn như đang bị bà
nha sĩ nhổ một cái răng hàm bự trong mồm. Cuối cùng, tôi chọn một chương trình
hỏa táng hợp với ý tôi. Tổng số tiền tôi phải chi ra là 2,709.24$ cho những mục
như sau:
• tiền giấy tờ (khám nghiệm xác chết,
giấy khai tử, v.v.);
• tiền xe đưa xác tôi từ nhà xác đến
Nhà Ðòn;
• tiền hòm bằng giấy cứng (50$) đựng
xác chết để mang đi hỏa táng;
• tiền đưa hòm xác tới lò đốt (không
có vụ bầy biện thân xác ra cho mọi người “dòm ngó”);
• tiền đốt xác;
• tiền hộp đựng tro để trao cho vợ tôi
mang đi thả xuống biển (tôi mua loại rẻ tiền nhất nên chỉ tốn có 20$; còn loại
sang và đẹp thì lên tới 500$);
• tiền thuế trả cho thành phố, tiểu
bang, và liên bang.
Người “tiếp thị” đại diện Nhà Ðòn
Tubman và tôi cùng ký vào tờ khế ước (bốn bản). Sau đó, tôi hân hoan trao cho
hắn tấm ngân phiếu 2,709.24$. Tôi phải trả tiền trước. Ðối với tôi, điều này
rất thuận tiện, vì sau này giá cả có gia tăng thì Nhà Ðòn ráng mà chịu, chứ
những “người ở lại” không còn phải lo lắng điều gì cho “người ra đi.”
Khi vợ tôi đi làm về, tôi hý hửng đưa
cho cô nàng xem tờ khế ước. Thế là cô nàng khóc bù lu bù loa, rồi hỏi tôi một
câu mà tôi cho là lãng nhách:
– Trong cả cuộc đời của anh, anh chỉ
thích chơi sang. Tại sao đến cuối cuộc đời, anh lại định chết một cách rẻ tiền
như vậy?
– Em hỏi một câu thiệt là lãng nhách!
Thế nào là chết rẻ tiền? Chết sang thì đi đến đâu? Mang tiền ra cúng Nhà Ðòn và
Nhà Nước làm gì? Chúng nó làm gì có quyền cấp visa cho anh vào Thiền Ðàng, hay
vào Vùng Cực Lạc. Việc gì mình phải “đút lót” chúng nó? Dù sao anh cũng “save”
hơn 12,000$, chứ đâu có phải là ít.
– Em không cần món tiền đó đâu!
– Nếu em không cần số tiền đó, thì em
mang nó đi giúp người nghèo, có sao đâu? Ða số dân ta hiện đang sống trong cảnh
nghèo túng. Em có biết rằng nếu em mang 12,000$ về Việt Nam, em có thể nuôi hơn
60 em mồ côi trong một năm. Như vậy, anh là người “chết sang” hay là người
“chết rẻ tiền”?
Thấy tôi lý luận như vậy, cô nàng vừa
lau nước mắt vừa cười đùa:
– Thôi, anh muốn chết kiểu nào cũng
được. Cái đó tùy anh. Nếu anh “ra đi” trước em, em sẽ chúc anh theo kiểu Tàu:
“Thượng Lộ Bình An,” và xin anh “Bảo Trọng.”
– Vậy, trước khi “ra đi,” anh sẽ chào
em theo kiểu Mỹ: “Hẹn Ngày Tái Ngộ” – “See You Later.”
Nguyễn Hữu Chi
Tiến Sĩ Tâm Lý Chính Trị Học
304Đen – Lượm lặt trên trang mạng
No comments:
Post a Comment