ANH HÙNG LỠ VẬN, PHAN BỘI CHÂU MỞ LỚP DẠY LÀM THI
Các nhà bình luận và nghiên cứu văn học
đều công nhận Phan Bội Châu là một nhà yêu nước chân thành . Không như một số
trí thức khác, đương thời, ông dấn thân thực sự vào con đường đấu tranh giải
phóng dân tộc hầu thoát khỏi sự đô hộ của thực dân Pháp . Từng hoạt động trong nước , sau ra hải ngoại , sang
Tàu , Nhật để tìm đường cứu dân cứu nước nhưng giấc mộng không thành ông phải
trả giá bằng những năm tù tội cho tới chết, thật đáng kính nể!
Sơ lược
tiểu sử tác giả:
Phan Bội Châu vốn tên là Phan Văn San (潘文珊). Vì San trùng với tên húy vua Duy Tân
(Vĩnh San) nên phải đổi thành Phan Bội Châu. Ông có hiệu là Hải Thụ, về sau đổi
là Sào Nam. Tên gọi Sào Nam (巢南) được lấy
từ câu "越鳥巢南枝 "(Việt điểu sào nam chi) nghĩa là
Chim Việt làm tổ cành Nam. Phan Bội Châu
còn có nhiều biệt hiệu và bút danh khác như Thị Hán (是漢), Phan Giải San, Sào Nam Tử, Hạo Sinh,
Hiếu Hán vân vân.
Phan Bội Châu sinh ngày 26 tháng 12 năm
1867 tại làng Đan Nhiễm, xã Nam Hòa, huyện Nam Đàn, tỉnh Nghệ An. Cha ông là
Phan Văn Phổ, mẹ là Nguyễn Thị Nhàn. Ông nổi tiếng thông minh từ bé, năm 6 tuổi
học 3 ngày thuộc hết Tam Tự Kinh, 7 tuổi ông đã đọc hiểu sách Luận Ngữ, 13 tuổi
ông thi đỗ đầu huyện. Năm 17 tuổi, ông viết bài "Hịch Bình Tây Thu
Bắc" đem dán ở cây đa đầu làng để hưởng ứng việc Bắc Kỳ khởi nghĩa kháng
Pháp. Năm 19 tuổi (1885), ông cùng bạn là Trần Văn Lương lập đội "Sĩ tử
Cần Vương" (hơn 60 người) chống Pháp, nhưng bị đối phương kéo tới khủng bố
nên phải giải tán.
Gia cảnh khó khăn, ông đi dạy học kiếm sống và học thi.
Khoa thi năm Đinh Dậu (1897) ông đã lọt vào trường nhì nhưng bạn ông là Trần
Văn Lương đã cho vào tráp mấy cuốn sách nhưng ông không hề biết nên ông bị khép
tội hoài hiệp văn tự (mang văn tự trong áo) nên bị kết án chung thân bất đắc
ứng thí (suốt đời không được dự thi). Sau cái án này, Phan Bội Châu vào Huế dạy
học, do mến tài ông nên các quan đã xin vua Thành Thái xóa án. Nhờ vậy, ngay
khoa thi hương tiếp theo, năm Canh Tý (1900), ông đã đậu đầu (Giải nguyên) ở
trường thi Nghệ An.
Hoạt động Cách mạng:
Lập Duy Tân hội, sang Nhật cầu viện.
Trong vòng 5 năm sau khi đỗ Giải nguyên,
Phan Bội Châu bôn ba khắp nước Việt Nam kết giao với các nhà yêu nước như Phan
Chu Trinh, Huỳnh Thúc Kháng, Trần Quý Cáp, Nguyễn Thượng Hiền, Nguyễn
Hàm...Phan Bộ Châu đả kích việc thực dân Pháp cấm giảng dạy lịch sử Việt Nam mà
thay vào đó là lịch sử Pháp, phản kháng việc đào tạo ra một tầng lớp công chức
và chuyên viên phục vụ cho nền cai trị và công cuộc khai thác thuộc địa của
Pháp.
Năm 1904, ông thành lập Duy Tân hội ở
Quảng Nam để đánh đuổi Pháp, chọn Kỳ Ngoại hầu Cường Để - một người thuộc dòng
dõi nhà Nguyễn - làm hội trưởng.
Năm 1905, ông cùng Đặng Tử Kính và Tăng
Bạt Hổ sang Trung Quốc rồi sang Nhật Bản, để cầu viện Nhật giúp Duy Tân hội
đánh đuổi Pháp.
Tháng 6 năm 1905, Phan Bội Châu cùng Đặng
Tử Kính mang theo một số sách Việt Nam vong quốc sử về nước. Tháng 8 năm 1905
tại Hà Tĩnh, ông và các đồng chí nồng cốt trong Duy Tân hội bàn bạc rồi đưa ra
kế hoạch hành động đó là: Nhanh chóng đưa Kỳ Ngoại hầu Cường Để ra nước ngoài. Phát
động phong trào Đông Du.
Tháng 10 năm 1905, Phan Bội Châu trở lại
Nhật Bản. Năm 1906, Cường Để qua Nhật, được bố trí vào học trường Chấn Võ. Kể
từ đó cho đến năm 1908, số học sinh sang Nhật Bản du học lên tới khoảng 200
người, sinh hoạt chung trong một tổ chức có quy củ gọi là Cống hiến hội...
Tháng 3 năm 1908, phong trào "cự sưu
khất thuế" (tức phong trào chống sưu thuế ) nổi lên rầm rộ ở Quảng Nam rồi
nhanh chóng lan ra các tỉnh khác. Bị thực dân Pháp đưa quân đàn áp, nhiều hội
viên trong phong trào Duy Tân bị bắt, trong số đó có Nguyễn Hàm, một yếu nhân
của hội.
Tiếp theo nữa là Pháp và Nhật vừa ký với
nhau một hiệp ước (tháng 9 năm 1908), theo đó chính phủ Nhật ra lệnh trục xuất
các du học sinh người Việt ra khỏi đất Nhật. Tháng 3 năm 1909, Cường Để và Phan
Bội Châu cũng bị trục xuất. Đến đây, phong trào Đông Du mà Phan Bội Châu và các
thành viên khác đã dày công xây dựng hoàn toàn tan rã, kết thúc một hoạt động
quan trọng của hội.
Những người sống sót sau các đợt khủng bố
đều phải nằm im, hoặc vượt biên sang Trung Quốc, Xiêm La, Lào để mưu tính kế
lâu dài. Cuối năm 1910, Phan Bội Châu chuyển một đại bộ phận hội viên (trong đó
có khoảng 50 thanh niên) ở Quảng Đông về xây dựng căn cứ địa ở Bạn Thầm (Xiêm
La). Tại đây, họ cùng nhau cày cấy, học tập và luyện tập võ nghệ để chuẩn bị
cho một kế hoạch phục quốc sau này.
Năm 1913, thực dân Pháp cử người đến Quảng
Đông "mặc cả" với Tổng đốc Long Tế Quang yêu cầu bắt Phan Bội Châu và
các yếu nhân của hội. Ngày 24 tháng 12 năm 1913, Phan Bội Châu bị bắt. Nhưng
nhờ Nguyễn Thượng Hiền lúc bấy giờ đang ở Bắc Kinh vận động, nên Long Tế Quang
không thể giao nộp ông cho Pháp, mà chỉ đưa giam vào nhà tù Quảng Đông, mãi đến
tháng 2 năm 1917, ông mới được giải thoát. Ra tù, Phan Bội Châu lại tiếp tục
hoạt động cách mạng ông lại bị bắt ngày 30 tháng 6 năm 1925. Nhờ sự can thiệp
của Toàn quyền Varenne, ông được về an trí tại Bến Ngự (Huế). Trong 15 năm cuối
đời, ông (lúc bấy giờ được gọi là Ông già Bến Ngự) vẫn giữ trọn phẩm cách cao
khiết, không ngừng tuyên truyền tinh thần yêu nước bằng văn thơ, nên rất được dân
chúng yêu mến.
Phan Bội Châu mất ngày 29 tháng 12 năm
1940 tại Huế.
Các nhà phê bình văn học đều công nhận
rằng những tác phẩm còn để lại của Phan Bội Châu đều mang nội dung giáo dục
lòng yêu nước, nêu cao tinh thần chiến đấu chống ngoại xăm, cảnh báo nỗi ô nhục
mất nước. Một điều đáng lưu ý, cụ Phan không những là một nhà tranh đấu kiên cường mà còn là một người suất sắc về
thơ văn, một nhà khoa bảng hiển hách, một chiến sĩ, một trí sĩ, và một thi sĩ
có tâm hồn đa cảm, biết thương dân yêu nước một cách chân thành, có nguồn cảm
xúc dồi dào, biết đau trước cảnh quốc phá gia vong. Thơ văn ông để lại gồm
nhiều loại bằng chữ Hán và quốc ngữ .
Lòng yêu nước của cụ Phan Bội Châu được
thể hiện trong hầu hết những bài thơ văn còn lưu lại, cụ thể bằng những vần thơ
sau đây mà khi đọc lên không ai mà không đau xót, thở dài cho một dân tộc bất
hạnh :
Thương ôi ! Lục tỉnh Nam kỳ
Ngàn năm cơ nghiệp còn gì hay không
Mịt mù một dải non sông
Hỏi ai ai có đau lòng chăng ai!
Hoặc bài thơ sau đây:
SỐNG
Sống tủi làm chi đứng chật
trời!
Sống nhìn thế giới hổ chăng ai?
Sống làm nô lệ cho người khiến,
Sống chịu ngu si để chúng cười.
Sống tưởng công danh, không tưởng nước,
Sống lo phú quý, chẳng lo đời.
Sống mà như thế, đừng nên sống!
Sống tủi làm chi, đứng chật trời.
Sống nhìn thế giới hổ chăng ai?
Sống làm nô lệ cho người khiến,
Sống chịu ngu si để chúng cười.
Sống tưởng công danh, không tưởng nước,
Sống lo phú quý, chẳng lo đời.
Sống mà như thế, đừng nên sống!
Sống tủi làm chi, đứng chật trời.
Bài thơ trên đây, biểu lộ một khí phách
hào hùng , một trái tim nóng bỏng tình yêu đất nước dân tộc, mỗi câu mỗi chữ như cây kim đâm vào
tim óc chúng ta , đánh thức lòng tự ái dân tộc, tự ái mỗi con người, hãy đứng lên tranh đấu giành độc lập. Trong
cuộc tranh đấu nầy dầu có thất bại cũng xứng đáng anh hùng lưu danh hậu thế còn
hơn sống mà phải chịu nhục, bị người ta sai khiến như con vật thì sống làm chi?
Sống hèn như thế chỉ làm chật đất mà thôi.
Ở đây chúng tôi không đào sâu cuộc đời hoạt động cách mạng cũng như tư
tưởng thâm sâu của tác giả mà chỉ xét về
nghệ thuật văn chương nhất là cách dùng điệp ngữ và phép đối trong thơ Đường để
chúng ta cùng học hỏi cái ưu điểm của người xưa.
Trong thơ Đường luật, người ta kỵ việc lập đi lập lại một từ hay một
ngữ nhiều lần vì nó làm cho bài thơ trở nên nặng nề, nhưng biết sử dụng khéo
léo những điệp ngữ ( kết hợp: âm, vận, thanh; từ ngữ chọn lọc, phân phối đúng vị
trí) sẽ khiến cho bài thơ có hồn, tạo sự lôi cuốn hấp dẫn lạ thường! Hãy đọc 4
câu thơ của Hồ Xuân Hương ta sẽ cảm nhận được điều đó:
Một đèo, một đèo, lại
một đèo,Khen ai khéo tạc cảnh cheo leo.
Cửa con đỏ loét tùm hum nóc,
Hòn đá xanh rì lún phún rêu.
(Đèo Ba Dọi /Hồ
Xuân Hương)
Ở đây cụ Phan phá lệ, dùng điệp từ "sống" liên tiếp trong
mỗi câu mà lại đứng đầu câu nữa ( thủ
nhất thanh) chủ đích là nhấn mạnh ý nghĩa của chữ "sống". Bài thơ có
8 câu mỗi câu là một cách sống sao cho xứng đáng con người. Câu thơ vừa dẫn
giải tha thiết vừa hô hào đấu tranh do đó điệp ngữ rất cần thiết cho thể loại
nầy.
Tương tự bài Sống ở
trên, cụ Phan làm tiếp một bài nữa tựa là Chết để bổ sung ý nghĩa bài trên làm
thành một cặp đồng nhất tư tưởng :
CHẾT
Chết mà vì nước, chết
vì dân,
Chết đấng nam nhi
trả nợ trần.Chết buổi Đông Chu, hồn thất quốc,
Chết như Tây Hán lúc tam phân.
Chết như Hưng Đạo, hồn thành thánh,
Chết tựa Trưng Vương, phách hóa thần.
Chết cụ Tây Hồ danh chẳng chết,
Chết mà vì nước, chết vì dân.
(Phan Bội Châu)
Bài thơ sử dựng điệp
từ "Chết" 8 lần ở đầu câu nhấn mạnh: Chết như thế nào cho xứng đáng để
hậu thế lưu danh. Chết như Hưng Đạo, Hai Bà Trưng...để phách hóa thần. Đặc biệt
chết như cụ
Tây Hồ, danh chẳng
chết!
Trong thời gian bị
giam lỏng ở Huế 1925, lúc nầy cụ có biệt danh là "Ông già Bến Ngự", cụ
Phan không còn hoạt động công khai nữa nhưng trong lòng vẫn nung nấu một tinh
thần bất khuất, lo nỗi lo trứơc thiên hạ, làm sao cứu nước thoát khỏi cảnh lầm
than nô lệ? Làm sao cải cách nền giáo dục để thanh niên biết nhục vong quốc mà
đứng lên kháng chiến chống kẻ thù ? Về sau, biến cố lịch sử ngày 17 tháng 6 năm
1930, Nguyễn Thái Học và 12 đồng chí bị xử chém tại Yên Bái, thêm vào là sự thất
bại của phong trào Đông du gây thiệt hại nặng nề cho thành viên, lớp bị bắt lới
bị giết, bị tù đày, khiến cụ xúc động mạnh, lòng nặng trĩu ưu tư, lo lắng cho vận
mệnh dân tộc. Nhiều chiến sĩ cách mạng đã hy sinh mà vẫn chưa thấy ánh sáng ở
cuối đường hầm, cụ như ngồi trên đống lửa. Theo tài liệu văn học còn ghi lại
thì năm 1931 trên tờ Phụ Nữ Tân Văn ở Sài Gòn có đăng tin tức cụ Phan mở lớp "dạy
làm thi" mở đầu cho việc thành lập
"Mộng Du Thi Xã". Hai chữ "mộng du" khiến người ta nghĩ tới
phong trào Đông du của bao chiến sĩ tìm đường học hỏi, vận động sự giúp đỡ của
nước ngoài tìm cách cứu nước Việt. Ý tưởng nầy làm thành chủ trương "Đông
du" mà cụ đã thực hiện bằng cách đưa học sinh sang Tàu, Nhật, du học. Mặc dù bị cầm
tù nhưng cụ vẫn hy vọng lớp người đi sau sẽ tiếp tục con đường đó. Cụ Phan gởi
bức tâm thư, tâm sự cùng đồng bào nỗi ưu tư làm sao cứu dân cứu nước mà trước mắt
là đưa học sinh du học . Bức tâm thư nầy được đăng trên hai tờ báo, một ở miền
Bắc ( Thực Nghiệp Dân Báo, số 3195 ngày 26/7/1931) và một ở miền Nam ( Phụ Nữ
Tân Văn, số 97 ngày 27/8/1931).
Việc mở lớp dạy
thi, cụ có lời mở đầu nghe bình dị, khiêm tốn
mà tha thiết:
Thưa bà con,
Tôi đã gần tuổi chết
mà chưa chết. Vì chưa chết tôi phải có ăn,vì có ăn tất phải có làm. Nhưng tôi
bây giờ biết làm cái gì? Tôi bây giờ vì còn có ăn nên tôi nghĩ một cách làm
song năng lực tôi với hoàn cảnh bây giờ thì không có cái thich hợp. Tôi định mở
cửa hàng dạy thi gọi là "Mộng du Thi Xã" bà con ai dốt thi hơn tôi,
muốn học làm thi, bằng lòng bảo tôi dạy, vô luận hạng người nào miễn có cao hứng
muốn học làm thi thì không cần phải giáp mặt tôi hoặc tới nhà tôi, cũng không cần
cho tôi biết họ tên, quê quán gì cả, chỉ viết thơ cho tôi biết cái ý muốn học
làm thi, hoặc là đăng báo mà gởi cho tôi số báo ấy, hoặc đưa thi tới bảo tôi chấm,
tôi xin hết lòng hoan nghênh biết chừng nào. Tôi xin đổ rương cạo túi mà cống
hiến cho bà con. Nay tôi viết một bài thi làm mẫu bày giải một vài cách làm
thi, xin bà con xem thử có vừa mắt hay không ?
Thứ nhất là thi 7
chữ 8 câu gọi là "Thất ngôn luật thi" mà người mình thường hay làm. Lối
thi nầy câu thứ nhất thứ hai không cần phải đối; câu (3,4),(5,6) phải đối nhau
từng chữ, câu thứ 7 thứ 8 không cần phải đối.Trong một bài, 5 chữ ở cuối câu
1,2,4,6,8 phải hợp một vần với nhau, riêng ra từng câu phải theo giọng bình giọng
trắc cho đúng phép mà nhập lại, phải đúng niêm luật, ấy gọi là thi.
BÀI THI
LÀM MẪU:
1.Vàng khè trắng toát khác đôi bên
2.Thây kệ ai chê mặc
kẻ khen
3.Sông núi lỡ làng
màu lịch sử
4.Gió trăng chờn chợ
mối nhân duyên
5.Chẳng long lay đến
lòng son sắt
6.Há hổ ngươi vì miếng
bạc đen
7.Ba chén xong rồi
ai ấy bạn
8.Một pho kinh Phật
một cây đèn.
(Phan Bội Châu)
xem bài trên: bên,
khen, duyên,đen , đèn, 5 chữ hiệp một vần. Câu 1,2 không phải đối, cốt cho
thông mạch. Câu 3,4 "sông núi, gió trăng"là danh từ. "Lịch sử,
nhân duyên" là hai chữ Hán văn, nhập tịch tiếng ta đã thành tiếng quốc ngữ,
đều đối với nhau mà thú vị nhất là 4 chữ : Lỡ làng, chờn chợ là tiếng thổ
âm của ta, mà chữ "làng" đối với
chữ "chợ" là vô tình mà thành ra đối nhau rất tự nhiên lại xung họp,
là một cách khéo tự nhiên trong nghề làm thi. Câu 5,6 : "son sắt, bạc
đen" đối rất cân nhưng cũng là thường, duy chữ "long" đối với chữ
"hổ" là vô tình mà được, gọi
là đối tiếng nghe cũng lý thú. Câu 7,8: câu thứ 7 kêu lên một tiếng hỏi để gọi
thứ 8 "Ai ấy bạn", 3 chữ nghe thật tầm thường mà nhờ nó nên câu thứ 8
mới hạ được một cách "môn cứng", không chi tiết rơm rác gì cả, đã chấn
khí cả toàn bài mà hô ứng với 2 câu khởi đầu.
Làm thi, thứ nhất
là cốt cho thông ý. Thứ nhì là cốt trao lời, lời thông thuận mà ý sâu xa, lại
có vẻ tự nhiên, tòan bài phải hô ứng thừa tiếp, như bài trên có lẽ cũng đã hợp
pháp. Còn nhiều cách điệu phương pháp nữa, xin tùy vấn tùy đáp.
Phan Sào Nam (Huế)
Lời bàn:
Tác giả dùng chữ
"thi" thay thế cho chữ "thơ"( dạy làm thi/dạy làm thơ).Theo
giáo sư Dương Quảng Hàm thì chữ "thơ" của ta do chữ "thi"
mà ra, nghĩa rộng thì "thơ" là một thể văn có thanh, có vận, có thể
ngâm vịnh được.
Nội dung "bài
thi mẫu" nói lên chí khí của một người yêu nước, bền gan, vững chí dầu nghịch
cảnh có thế nào. Dù thân bị kềm kẹp, tù đày ra sao vẫn không nản lòng, vẫn tìm
cách tranh đấu, không phải bằng bạo động mà bẳng thơ văn tuyên truyền, khích động
lòng yêu nước lòng tự hào dân tộc.
Dầu bị giam lỏng
nhưng người Pháp ngày đêm theo dõi chặt chẽ, cụ Phan khó lòng thu nhận được học
trò đến học làm thơ vì ai cũng sợ bị bắt. Cụ đăng báo quảng cáo lớp học chẳng
qua là muốn che mắt người Pháp để truyền đi thông điệp " Mộng du thi
xã" để đồng bào có được phương hướng cứu nước.
Lời thơ thì nhẹ
nhàng đầy khí khái của một của một nhà nho có khí tiết, của một bậc anh hùng
lúc sa cơ lỡ vận vẫn giữ vững phong cách và hào khí của một bậc hiền nhân quân
tử.
Phép đối trong bài
thơ thất ngôn bát cú nầy rất chỉnh, cân xứng, tuyệt vời, có thể dùng làm mẫu
cho những ai muốn học làm thơ Đường.
BÀI THƠ CẢM TÁC (Nguyễn
Cang):
NHỚ CỤ PHAN
Sào Nam Việt Điểu cụ
Phan ơi!
Vĩnh biệt ngàn thu
cụ mất rồiTrách phận cuộc đời sao nghiệt ngã
Than thân số kiếp cũng đành thôi
Bao năm tranh đấu cho dân tộc
Một phút sa cơ khóc hận đời
Bến Ngự thân già đành bỏ cuộc
Trời Nam tan tác cánh chim rơi.
No comments:
Post a Comment