HUYẾT NHÂN NGẢI
Chị Hạnh dường như đọc được
suy nghĩ của tôi, vừa đi chị vừa nói:
-Thầy bắt gặp, chị chẳng biết nói sao, nhưng em đã quyết, chị chẳng ngăn nữa.
Dứt khoát không được sợ sệt, hốt hoảng nghe chưa! Vào vườn ngải em phải bình
tĩnh, tâm thế giản dị. Công việc luyện ngải không dễ dàng đâu.
Khi quỳ trước cây mai hoa xà
vương ngải, chị Hạnh bảo: “Cúi xuống! Đừng nhìn!” Tôi răm rắp làm theo sự chỉ
dẫn của chị Hạnh. Được một thoáng, trí tò mò của tôi lại nổi loạn, tôi hé mắt,
hình dung như mình đang đứng trước một con người tinh anh, nhãn quang cực mạnh,
tay chân tôi tự nhiên lại hơi run run, mồ hôi lạnh rịn ra hai bên thái dương.
Tôi ngước nhìn lần nữa rồi không sao cúi xuống được, tôi bị mê hoặc bởi những
cánh hoa màu sắc lạ lùng: ngoài hồng thắm, trong tím thẫm, lại pha lốm đốm
những chấm vàng, giữa các ranh giới chuyển tiếp màu ấy là trăm hồng nghìn tía
lung linh. Tia mắt tôi bị hút vào những vùng màu sắc ma quái, tim tôi loạn
nhịp, tự dưng cảnh vật chung quanh biến đổi, chao đảo, những cánh hoa như đàn
chim phượng đang vỗ cánh bay lên, lượn vòng rồi đậu xuống vai tôi, tóc tôi, môi
tôi, mũi tôi. Hương hoa thơm dịu phảng phất. Người tôi lâng lâng, tôi nghĩ chỉ
cần mình nhấc đôi cánh tay là có thể bay lên như những cánh phượng hoàng, cánh
tôi sẽ chao nhoè, đồng tử tôi sẽ loé những tia sáng bén nhọn. Tôi cảm giác mình
đang cháy đến nơi, đang rã ra đến nơi, đang nhỏ bé, triệt tiêu. Tôi bước tới
định hít thật sâu cho lồng ngực mình cho ắp đầy làn hương quyến rũ ấy, liền bị
chị Hạnh đưa cánh tay nõn nà vòng ngang ngực cản lại. “Em phải tắm rửa sạch sẽ
mới đến gần được. Đó là vua ngải.” Tắm rửa sạch sẽ. Tôi hiểu điều đó có nghĩa
là chúng tôi phải qua một nghi lễ kiểu như tẩy trần.
Trong căn nhà lục giác, chị Hạnh
hướng dẫn tôi tư thế nằm trên chiếc sạp tre. Chị cũng khoả thân như tôi sau khi
đặt một chậu lá giống lá hẹ xùm xuề phía dưới sạp, tôi không hiểu đó là loại lá
gì nhưng tôi ngửi được mùi hăng hăng nồng nồng. Tôi hỏi “Lá gì vậy?”, chị Hạnh
có vẻ bí mật, đưa một ngón tay trước môi, chị trườn mình lên cơ thể tôi rồi ghé
môi sát tai tôi khẽ khàng tiếng gió: “Huyết… nhân… ngải”. Tôi hơi giật mình,
tôi từng nghe ba nhắc đến loại ngải này, chỉ cần để hai chậu ngải cạnh nhau là
gió sẽ nổi lên, người luyện ngải sẽ bị vong mạng, vô phương cứu chữa.
Chị Hạnh lại tiếp tục thì thầm
vào tai tôi: Loại ngải quý đó em, ban ngày, lá nó xanh bình thường, nhưng đêm
thì ửng đỏ, chi hoa, cuống hoa mảnh như không có thật, hoa đỏ bầm, nhỏ li ti,
lửng lơ nở vào những đêm trăng thu. Lúc ấy không gian chậu cây như đang xuất huyết,
như đang đẫm lệ. Những ngôi sao máu vừa sa. Những bông hoa máu vừa vỡ. Những
túi hương máu nặng mùi tanh tanh nồng nồng vương vãi, đậm đặc trong vòng năm
bảy sãi tay. Chỉ cần hít một ít hương thơm này cũng đủ cho người khoẻ nhất ngay
lặp tức rơi vào trạng thái ảo giác mơ hồ… Một loài hổ ở tận rừng sâu ăn hết
thịt những người đàn bà tuổi dần nhưng chừa lại quả tim, đúng ngày đúng tháng,
đủ khí âm dương quả tim người ấy liền mọc thành loại ngải này… Hạt giống tim
người. Tôi chưa từng nghe cái gì ám ảnh hơn thế. Tôi lại rùng mình vì chợt nhớ
tôi cũng tuổi dần mà. Chị Hạnh đưa vào miệng tôi một lát củ gì đó làm lưỡi tôi
hơi tê tê. “Em cứ ngậm, cứ thư giãn; tắm rửa bằng ngay chính ý nghĩ của mình,
tắm rửa bằng ngay chính ý nghĩ của mình, tắm rửa bằng ngay chính… ý… nghĩ… của…
mình, … Tôi chưa kịp nghe hết câu nói cuối cùng của chị Hạnh thì đã trôi đi,
nhẹ tênh, bồng bềnh, rồi rơi vụt đi như một chiếc lá nhỏ vừa xiên ngang trong
gió.
Nơi đó, tôi thấy mình đang bơi
trong một không gian mờ ảo, có một cành lá vuốt ve trên thân thể tôi, vuốt ve
cả những vùng da nhạy cảm mà từ khi lớn lên, qua tuổi dậy thì, chỉ duy nhất có
bàn tay tôi sờ mó, kì cọ trong những lần tắm táp. Tôi cảm nhận có gì đó trơn
ướt lướt dọc gang bàn chân mình, vờn lên cổ mình, lên đỉnh ngực mình. Đôi môi
tôi chợt cảm nhận làn hương vị ngọt ngào, rồi cái vị ngọt ấy lan chảy trong
răng lưỡi, ứ tràn trong cổ họng tôi. Môi tôi nút chùn chụt theo bản năng như
một đứa bé vừa rứt rời nhau thai đã biết nút dưỡng chất ngọt thơm từ bầu vú mẹ.
Da tôi thức dậy bởi những cơn sóng nhỏ, xương gân tôi rướn duỗi khát khao, thần
kinh tôi thức dậy thúc giục, đòi hỏi… Tôi ưỡn người, cơn rùng mình kéo dài.
Đau. Một cảm giác đau nhói ở đâu đó trên cơ thể. Vai tôi từ từ nhú lên đôi cánh
nhỏ, đôi cánh khẽ khàng cử động, rồi nhịp lên nhịp xuống thật sự. Cơ thể tôi
cũng nhịp lên nhịp xuống. Tôi không làm chủ được đôi cánh ấy, tôi muốn khóc vì
bất lực. Tôi thì thầm “Cánh ơi, cánh ơi!” Chợt tôi thấy mình bay lên giữa mênh
mang lặng im, càng lên cao sương khói càng dày hơn, xung quanh mịt mờ, rồi tôi
bay đến một vùng trời không còn màu sắc ngự trị, tất cả trong veo, những đám
mây trong veo, da trời trong veo, tôi trong veo, không có ranh giới nào ở đây
cả. Lạ lùng là ý nghĩ tôi cũng trong veo, không một gợn lo lắng, không một gợn
buồn thương, không mảy may hối tiếc, chỉ lâng lâng, choáng ngợp trong cảm giác
mới mẻ. Dường như tất cả là hư vô, với hư vô, trong hư vô…
Tỉnh dậy, tôi thấy mình không
còn nằm trên sạp tre, chị Hạnh đã bế tôi vào nhà, tôi chợt thấy thần kinh mình
rất nhạy, nhưng lại không còn tập trung vào được bất cứ suy nghĩ hay công việc
gì, cơ thể mình có một số thay đổi. Thay đổi rõ rệt nhất là mái tóc đen mượt
chấm lưng của tôi bỗng nhiên xù lên, những sợi tóc từ cổ trở xuống phình to,
nâu cháy, đùn rối trong nhau. Tôi với tay lấy cây lược, cây lược nhựa dẻo hằng
ngày trơn tuột theo mái tóc mượt của tôi mà nay chợt sựng lại, không nhúc nhích
thêm được tí nào nữa. Các ngón tay của tôi co lại giật mạnh đến đau nhói da đầu
mà mớ tóc rối ấy vẫn không thay đổi. Tôi bất lực soi nó trong gương, rồi cứ thế
đứng nhìn sững hàng giờ liền, những giọt nước mắt tôi lăn tràn trên má giờ đã
se khô, lem luốc làn da. Chị Hạnh ôm tôi vào lòng, ấp mặt tôi vào ngực chị, tôi
thổn thức trong tư thế như vậy. Nhớ ngày tôi mới để tóc dài, nhìn mái tóc tôi,
ba hay kể chuyện về bà nội:
…Bà nội tôi muốn gội đầu phải
đứng trên bộ vạt tre vì mái tóc như suối. Suối tóc thật sự, nếu xoả ra trên bộ
ngựa một thì dòng suối ấy sẽ lượn vòng, chảy tràn từ mút này đến đầu kia, phần
còn lại tuôn xuống như thác nước bay, như phi tuyền huyễn mộng. Má tôi và một
người dì nữa nhắc ghế cao đứng hai bên, người thì cẩn thận múc từng gáo dừa
nước bồ kết đổ điệu nghệ, từ từ dọc theo mái tóc sao cho nước bồ kết thấm đều
hết mái tóc mà không vương vãi ra ngoài, người thì dùng các ngón tay vuốt mãi
cho sạch tóc rồi dùng chiếc gáo khác múc nước mưa để lâu năm xả cho tóc thật
mượt mới thôi. Phải mất cả buổi mới gội xong mái tóc. Hong tóc cũng là một kì
công mà chỉ có bà tôi mới đủ kiên nhẫn đứng hàng giờ liền, phải đứng ở nơi có
gió mà lại không có bụi. Hôm nào trời oi nồng, không gió, má và dì tôi phải
thay nhau cầm quạt mo cau quạt liên tục, mà phải quạt sao cho đường quạt lên
xuống phải thật dài theo hết chiều dài mái tóc. Chỉ bàn tay dịu dàng khéo léo
của má tôi chải tóc cho bà là bà ưng ý nhất. Càng nhớ lại chuyện kể về mái tóc
bà nội, nước mắt tôi càng tuôn ràn rụa trên má.
* * *
Người làng tôi vẫn tin rằng ba
tôi sinh nghề tử nghiệp: “Ông giáo Thư luyện ngải trúng ngải mà chết.” Có người
còn tán như thiệt: “Một cây ngải nâu được ăn trứng gà sống và uống huyết gà
nhiều quá quay lại hại ngay chính người luyện. Ông giáo Thư đã trúng độc của
cây ngải nâu, thúi hết cả lục phủ ngũ tạng…” Sự qua đời đột ngột của ba tôi làm
tâm hồn tôi tê điếng vậy mà cứ qua bên kia sông là tôi lại nghe đầy lỗ tai
những lời bàn tán, tôi chỉ còn biết lẳng lặng quay đi, tôi sợ người ta phát
hiện ra tôi, phát hiện ra tội lỗi của tôi, tôi sợ người ta gợi đến vết thương,
nỗi dằn vặt, ân hận đau xé trong lòng mình. Động Trắng, nơi cha con tôi sinh sống
cách làng một dòng sông, nằm tách về phía biển, chỉ qua lại bằng thúng chai,
vốn đã xa lạ với những ngư dân, nên mọi chuyện dễ thành đề tài đàm tiếu, thêm
thắt mắm muối, một đồn trăm, không đồn thành có của thiên hạ. Chỉ người vừa
trong nhà vừa tội nhân như chị Hạnh, vừa là học trò vừa là người giúp việc cho
ba và như tôi, đứa con gái ruột rà duy nhất của ba là biết rõ nguyên nhân thật
sự…
– Thần chưa suy mà quỷ đã lộng…
Trời ơi! Lũ quỷ… Ba tôi đứng như trời trồng, lầm bầm rồi đột ngột hét lên, ném
mạnh cái bay xới đất, chị Hạnh ép sát vào người tôi vừa né tránh vừa bảo vệ cho
tôi. Chúng tôi lồm cồm quơ vội đống áo quần, bò xuống núp dưới chiếc sạp tre.
Tôi đưa mắt len lén qua kẽ ngón tay: Ba tôi đã nằm sóng xoài, bất động. Tôi bật
dậy xỏ váy, tròng vội chiếc áo thun lên người rồi lao ra…
Chị Hạnh lật đật loay hoay mãi
với mái chèo, cuối cùng thì chiếc thúng chai cũng hết xoay tròn, rời khỏi bờ,
cà giật bơi đi trên con nước ròng mỗi lúc một duềnh lên, (không hiểu có phải
tại tôi quá sợ không mà trong trí tôi bây giờ vẫn còn như in cái mặt nước sông
xanh ngắt dập duềnh chao đảo ấy). Hai đùi tôi mỏi rã rượi lại chịu sức nặng của
đầu ba đang nằm ngoẹo trên đùi nên tê cứng, mất cảm giác, thỉnh thoảng tôi sửa
lại đầu ba tôi, hết đặt đùi phải lại qua đùi trái, sửa đến lần thứ năm thứ sáu
gì đó thì thúng cặp bờ. Tôi làm mọi việc như một chiếc máy, đầu óc trống rỗng,
cơn ngây ngất ban chiều vẫn chưa dứt hẳn. Qua bên kia sông, chị Hạnh một đầu
võng, tôi một đầu, hai đứa lúp xúp chạy qua hết mấy chục đám ruộng muối, lên bờ
xuống ruộng mãi rồi cũng đến được trạm xá…
* * *
Dường như có một thứ thời gian
nào đó ngấm dày, mọc rễ trong tầng tầng lớp lớp mảnh đất này? Ít ra là với
những gì đã trải qua khiến tôi có cảm giác như thế.
Dường như có một thứ nửa bóng tối nửa ánh sáng đang đùa cợt trên những chiếc lá
mùa xuân tội nghiệp. Tôi chưa bao giờ tin vào mùa xuân nhưng tôi lại rất thương
những chiếc lá non, ít ra nó cũng cho ta cảm giác hy vọng, một loại hy vọng từ
trong linh thức, đó là được tái sinh, tôi luôn ước ao được tái sinh tới một vòm
trời mới lạ…
Tôi chợt nhớ lại lời ba tôi thường dạy: “Lấy tối hiểu sáng, lấy sáng hiểu tối”.
Lúc ấy, tôi chưa hiểu ba tôi muốn nói gì, tôi nghĩ có lẽ chỉ là những câu nói
kiểu người lớn dùng bít kín ý thức của tôi mà thôi.
Từ ngày Hạnh của tôi vĩnh viễn
ra đi, xuân này, tôi mới về lại nhà mình, tôi lại đi lang thang trên con đường
lởm chởm đá sau nhà như tôi đã từng đi ngày ngày trong một thời gian dài của
đời mình. Đó là sở thích? Không, đó là thói quen, đã là thói quen thì không
cưỡng được. Con đường ấy tuy trước đây chỉ là một trong nhiều con đường khác
nhau trong vườn, ba tôi không buộc tôi đi con đường đó nhưng ông đã không cho
tôi có chọn lựa khác và một khi đã đi thì nó thành con đường của mình, thật khó
mà rẽ lối nào nữa, dù điều có được trên con đường ấy chỉ là sự cô đơn tột đỉnh,
hoang mang tột độ và nỗi khát khao tột cùng.
“Con gái! Ba cấm con vào vườn
ngải! Con đi lối kia!” Ba tôi chỉ tay và tôi tin đó là mệnh lệnh, loại mệnh
lệnh có lợi cho tôi, vì tôi, nhưng trí tò mò nông nỗi của tôi thì lại lên tiếng
mách bảo: Phải vào đường kia bằng mọi cách. Trong suốt thời gian dài chưa lần
nào tôi nhận ra, dù chỉ là cảm giác khi đặt những bước chân mình vào trong vườn
ngải là đã bước ngược vào chính con người mình. Bao năm qua, tôi đã đi trong ảo
giác, cuộn tròn trong những bức vách hoa lá tưởng tượng do mình tạo ra. Nhớ lúc
ban đầu, tôi trèo lên hàng rào ngó đăm đăm vào vườn ngải, tìm cách vượt rào, ba
phát giác kịp lúc, tôi bị ba mạnh tay quất cho mấy roi và tụng đi tụng lại bài
giáo huấn bất tận. Già lớn sợ nhân, trẻ non sợ quả. Có lẽ chính ba tôi cũng đã
phần nào sợ rằng thế giới ngải của ông sẽ tạo ra một tấn kịch muôn màu sắc mà
nhân vật chính là con gái cưng của mình.
* * *
Tôi đã bị cuốn quá lâu vào một
loại trạng thái xoáy tròn, ảo giác về sự trong sáng, về ánh mặt trời, về lẽ
sống ngoan ngoãn, tuân phục. Đè nén và xoáy tròn. Chỉ có cuộc bùng nổ chính bên
trong mình đang chờ tôi phía trước. Từ lâu tôi không còn tin sự chấp nhận cô
đơn của mình trên con đường đá lởm chởm bên ngoài vườn ngải là một loại ý chí
và là thiện chí, những bài giáo huấn bất tận, những ngôn từ đạo đức, tinh tế,
cao siêu, lý tưởng đã bị tôi lờn mặt và coi thường, tôi đã trở thành một kẻ
thực tế và hoài nghi cao độ, nhưng bề ngoài, tôi vẫn cố giữ những biểu hiện của
một con “ngố rừng” ngây ngô hết thảy, với mọi nơi, mọi lúc, mọi vấn đề. Tôi có
một cõi riêng là gốc dương già, chiều nào tôi cũng ngồi ở đó nhìn đăm đắm ra bờ
sông về phía làng biển. Có lần tôi nhìn thấy rõ ràng đám cưới của mình ngang
qua dòng sông, hơn chục chiếc thúng chai dán chữ song hỉ đỏ lòm lòm, tiếng cười
nói rôm rả cả khúc sông. Tôi thấy mình là cô dâu áo dài khăn đóng đang ngồi nép
mình bẻn lẻn bên chàng rể khôi ngô tuấn tú. Bỗng nhiên chiếc thúng chai chở dâu
rể rơi vào ao lò, một vòng xoáy dữ dằn đột ngột xuất hiện giữa dòng. Tôi ú ớ
rồi hét lên thảng thốt. Tôi đưa tay dụi mắt lia lịa, té ra nảy giờ ngủ gục mơ
màng. Tôi bàng hoàng nhìn lại, chỉ mang mang con nước màu ve chai nối với vùng
trắng loá bên kia. Đường chân trời không một bóng người, tạnh im, hoang dại.
Ba tôi là một giáo sư dạy môn
vạn vật, đã nghỉ việc. Từ Sài Gòn ông về ở hẳn Động Trắng nhiều năm rồi. Ba tôi
có nỗi đam mê tột cùng là nuôi luyện ngải, trước năm 1975, thỉnh thoảng ông đi
nước ngoài để săn tìm ngải quý về luyện. Khi về khu vườn của ông bà nội tôi để
lại ở Động Trắng này, ông đã mang hết ngải về đây. Trong khu vườn ngải rào lưới
kín bưng, dây leo phủ kín, chỉ có ông và người học trò của ông là ra vào được.
Ba tôi âm thầm luyện ngải, tuyệt không nói gì với bên ngoài. Khi tới kỳ quan
trọng trong quá trình luyện ngải, ông ở luôn trong vườn ngải cả ngày. Đưa cặp
mắt lén lút qua bức rào tôi vẫn thấy công việc trồng và luyện ngải: Đầu tiên
ông cho các chất tượng trưng ngũ hành như diêm sinh, sắt, gỗ mục, muối và ít
đất lấy trên núi cao vào chậu đất nung, trộn đều rồi trồng ngải vào. Xong, ông
đem đặt lên một bàn thờ trong căn nhà lục giác, ông nhắm mắt, đọc thần chú. Tôi
hỏi, chị Hạnh, học trò của ba giải thích: Đó là công việc truyền phù. Chị Hạnh
thường thì thầm giảng qua loa cho tôi về công việc của ba, có lúc bị vặn hỏi
vào thế bí, hết đường né tránh, thay vì phải giảng tới nơi chị lại nhe hàm răng
trắng như ngọc của mình ra cười huề cả làng.
Chị nói: Khi được luyện, cây
ngải sẽ mất rất nhiều thiên năng nhưng bù lại sẽ tăng thiên phù.
Tôi hỏi: Thiên năng là gì? Thiên
phù là gì?
Chị phẩy tay cười trừ. Tôi biết
chị không được phép, tức quá tôi mạnh dạn hỏi ba. Ba ân cần giảng đó là năng
lực tự nhiên và năng lực của người luyện, nhưng giảng xong thì cả tôi và chị
Hạnh đều phải trả giá bằng một buổi quỳ trên xơ mít khô, hai đầu gối thủng lỗ
chỗ, đau buốt cả tuần vẫn chưa hết. Ba tôi có kiểu phạt lạ đời (ông thường kể
cho tôi nghe kiểu phạt này ông thường bị khi ông còn học ở bậc tiểu học). Ba
không muốn tôi biết những điều liên quan đến ngải nhưng ông cũng không muốn tôi
hiểu ông giấu tôi điều gì đó.
Ngày ba hấp hối ở trạm xá, nghe
tiếng khóc của tôi, mí mắt ba khẽ rung rung, tôi nắm bàn tay gầy guộc của ba áp
vào má mình hồi lâu. Đôi môi chợt mấp máy, ba thều thào yếu ớt “Mai…rồng…” Ba
tôi chỉ nói được vậy rồi xuôi tay. Đám tang ba tôi đã qua hơn ba tháng, ngồi
trước mộ ông trong ngày giỗ Bách nhật, tôi mới giật mình hiểu được mấy tiếng ú
ớ tưởng như vô nghĩa ấy. Ba muốn nhắc đến cây ngải quý mà ba chăm chú, khổ công
luyện nhiều năm nay, nó là cây mai hoa xà vương ngải, vua ngải, có lẽ cây ngải
này đã hoá ngải rồng. Theo lời ba tôi, nếu quả thật ba tôi đã tinh luyện thành
cây ngải rồng thì cực kì quý giá, ngậm ngải rồng dao chặt không đứt, rắn độc
cắn cũng chữa trị được. Tội nghiệp ba, luyện được ngải rồng là tâm huyết một
đời của ba, vậy mà vừa chớm thành công ông đã từ giã cõi đời.
Nhớ lại ngày tôi bị lạc trong
cơn mê đắm ảo giác, đó là lần thứ hai tôi về quê và cũng là lần nghỉ hè cuối
trong quãng đời áo trắng, tôi về Động Trắng nghỉ hè. Phần vì thèm muốn điều bị
ngăn cấm nên chạng vạng tối rồi mà tôi vẫn quyết định kéo cánh cổng vào khu
vườn ngải. Bước qua bao nhiêu là ngải, chậu cao, chậu thấp, chậu nhỏ, chậu to,
chợt tôi sựng lại. Đôi chân tôi rụt rè, chậm dần rồi dừng hẳn. Tôi không thắng
được nỗi sợ hãi. Tôi phải quay lại nhà kéo thêm chị Hạnh, học trò của ba đi
cùng. Để rồi sau đó tôi thường xuyên bước vào đó để “tắm rửa” cùng chị Hạnh như
có một ma lực nào đó đẩy đôi bàn chân của tôi, dường như con người tôi không còn
chút can thiệp nào của ý thức. Chị Hạnh “tắm rửa” cho tôi bằng chính ngay thân
xác mình, đôi lần tôi cũng chủ động “tắm rửa”lại cho chị. Tuy nhiên khi dẫn
thân xác vào “vùng” ấy, chúng tôi lại nghĩ mình đang tắm rửa bằng chính ý nghĩ
của mình. Có một hoặc hai nhân cách khác tồn tại cùng lúc với chính con người
bản năng của chúng tôi. Sự cọ sát thân thể của hai chúng tôi được che đậy bởi
những ý nghĩ thanh sạch, những ảo giác bay bổng và chúng tôi luôn tin như vậy.
Cả tôi và chị Hạnh đều biết sự thật nhưng không ai nói ra hoặc là chúng tôi
đang bị cuốn đi, không còn điều kiện để quay trở lại, để nhìn nhận mọi sự việc
một cách thấu đáo và bình tĩnh. Chị Hạnh cũng không tỏ tình với tôi, những lúc
lọt thỏm mềm nhũn người trong vòng tay âu yếm của chị, những lúc nằm trên chiếc
sạp tre cuồng mê ấy, chúng tôi chỉ im lặng, có lẽ mọi lời nói trong cái gọi là
“tình yêu tha thiết” giữa một đứa con gái mới lớn như tôi và chị Hạnh là thừa.
Chỉ cần một buổi thiếu thốn da thịt chị Hạnh, thiếu thốn những lời kêu gọi tắm
rửa bằng ý nghĩ là mái tóc rối của tôi vàng chạch hẳn ra, những sợi tóc phình
to hơn, xù rối hơn, đầu tôi đau như búa bổ. Có lúc tôi còn thấy cả bà nội tôi
hiện về đang đứng gội đầu trên bộ vạt tre và dòng suối tóc lượn chảy bất tận.
Những lúc ấy, dù là nửa đêm tôi cũng lọ mọ đi qua buồng của chị như ma dẫn, tôi
vạch mùng chui vào áp mình vào cơ thể chị như một kẻ khao khát đến ngây dại.
Sau khi ba tôi qua đời, một
người đàn ông khác thường tắp thúng chai vào Động Trắng lấy nước ngọt trước khi
ra khơi. Tôi không hiểu tại sao anh ấy không lấy nước ngọt ở làng mà lại ra
đây. Nhưng rồi sự có mặt của anh ấy đúng lúc và cần thiết đến nỗi tôi và chị
Hạnh không ai bảo ai, công khai coi anh như một người thân đã từ lâu. Có những
buổi tối trời động, anh lôi ghe lên thẳng gốc dương già, ở lại tham gia những
buổi uống trà bánh ngọt với chúng tôi. Câu chuyện của anh bao giờ cũng xoay
quanh những ngọn gió Nam Lửa thổi từ núi Ông ra, ngọn gió này có tên là gió
Treo Xoong vì không đánh bắt được gì mà biển lại rất nguy hiểm hoặc cái cách
nương theo ngọn gió Dọc để “bắt giọt” bỏ chà. Anh ấy cứ thế lặp đi lặp lại hàng
chục lần, nhưng vẫn say sưa, vẫn cười hề hề khi bắt gặp những cái bụm tay ngáp
dài của tôi và chị Hạnh. Thân hơn, anh ấy đã tự do vào ra trong nhà, có khi tôi
và chị Hạnh đang “tắm” trong vườn ngải, anh ấy đã đứng nhìn ngây dại cả buổi
trời, sau này nghe chị Hạnh kể lại tôi mới biết. Những ngày biển động, anh ta ở
lại giúp chúng tôi những việc nặng nhọc. Anh ta lúc nào cũng chỉ một chiếc quần
đùi trên người, bắp thịt cuồn cuộn, da thì sạm đen, đôi lúc tôi thèm đứng gần
cơ thể anh ta để ngửi cái mùi nắng gió hấp dẫn ấy, để nhìn những tay chân ghồ
ghề to tê của anh, ánh mắt tôi đờ đẫn, ngây dại.
Nhìn thấy ánh mắt của tôi, chị
Hạnh giả lơ quay đi, nhưng cả ngày hôm đó, tôi hỏi gì chị cũng không trả lời.
Khi đám mây đen trong căn nhà tôi nặng trĩu đen kịt, không khí nặng nề đến
không chịu nỗi thì chị Hạnh lên tiếng: “Khoái lạc nhỏ phát sinh từ độc ác lớn”.
Chị bồi thêm: “buồn cho người bỏ gốc theo ngọn”. Tôi đã chạy đi và úp mặt khóc
sướt mướt. Vết rạn đầu tiên trong quan hệ của hai chúng tôi đã tượng, đã thành.
Vết rạn trong tâm hồn nhanh chóng nới ra lớn hơn đôi khi chỉ vì một nguyên cớ
chẳng ra sao, một câu nói vô tình, một tiếng khua đâu đó lỡ hơi mạnh tay cũng
thành đám mây đen mới trong mắt nhau.
Chị Hạnh lớn hơn tôi năm tuổi,
giống tôi như hai giọt nước. Tôi không biết chị có mặt ở nhà tôi từ lúc nào,
chỉ biết rằng chị là học trò của ba. Chị theo ba học luyện ngải và là phụ tá
đắc lực cho ba.
Nhiều lần tôi tự hỏi mình: Có
phải tôi đã yêu chị Hạnh rồi không? Yêu một người nhưng lại thèm muốn một
người? Hay tôi chỉ nghiện ngập những buổi lễ “tẩy trần” mây mưa cùng với chị
Hạnh bên cạnh chậu huyết nhân ngải? Chị Hạnh là người thích nói những câu chữ
sách vở làm cho tôi chẳng biết ra sao. Chị hay lí sự: Ngay lúc nói “chị Hạnh
yêu em” thì oái oăm là tình yêu không có mặt, nhưng khi chị Hạnh có tình yêu,
em có tình yêu, nhận biết tình yêu của mình thì ngã không có mặt.
Sau này thì sự thật diễn ra theo
đúng như vậy. Một lần chị Hạnh qua bên sông mua thức ăn, anh ấy đã ép tôi vào
gốc cây dương già (chính tôi chủ động dẫn anh ấy tới cõi riêng của mình, nơi mà
tôi không thể nhớ hết mình đã bao nhiêu lần ngủ gục mơ màng có một đám cưới
trên sông) và tôi cũng choàng tay, đu người cố gắng thuận theo, cố gắng chứng
tỏ mình là người đàn bà trăm phần trăm. Mặc dù những lần quan hệ ấy chỉ làm cho
tôi thấy đau đớn, ê mình ê mẩy, không một chút cảm giác sung sướng hay đê mê,
nhưng tôi an tâm, nhẹ lòng vì như vậy là thuận theo tự nhiên, thuận theo quy
luật âm dương, đàn bà cần đàn ông. Ngược lại, với chị Hạnh tôi có tất cả những
thứ khao khát kia nhưng sau đó, trong lòng lại ngập tràn cơn sợ hãi. Tôi không
sao hiểu nổi mình nữa. Rồi chuyện sẽ xảy ra đã phải xảy ra…
Chiếc thúng lướt thật êm làm cho
cả tôi lẫn anh chàng ngư phủ không hề biết là chị Hạnh đã đứng sửng ở đó từ
lâu. Khi tôi quay đầu lại thì chỉ còn thấy tà áo chị đang vụt vào nhà. Tôi dừng
lại vừa túm váy kéo lên vừa chạy theo. Chiến tranh lạnh kéo dài ba ngày đêm.
Sáng hôm đó, sau một đêm thao thức, tôi ngủ dậy muộn. Vừa dụi mắt tự dưng người
tôi lạnh toát, tôi vừa linh cảm có điều chẳng hay xảy ra, tôi xộc vào phòng
chị, trống trơn, tôi lao ra ngoài réo gọi. Ngoài bến, chiếc thúng chai đã biến
mất. Bàng hoàng, tôi gục xuống, chuồi hai chân trong cát. Chợt tôi phát hiện
chiếc thúng chai lấp ló trong một lùm cây phía dưới. Từ tư thế tuyệt vọng rã
rời trên bãi cát, tôi bật dậy như một chiếc lò so. Tôi chạy vào vườn ngải, tôi
thở ra mừng thầm trong bụng khi thấy dáng chị trắng nõn trên chiếc sạp tre.
Nhưng hỡi ôi cơ thể chị đã lạnh ngắt từ lúc nào. Hạnh của tôi đã cứng lạnh từ
lâu, đôi mắt mở trừng trừng nhìn nóc nhà lục giác. Dưới sạp tre, hai chậu huyết
nhân ngải đặt cạnh nhau rào rào khua động, khi mà ngoài kia gió lặng đến rợn
người. Một ý nghĩ đen tối nhất, lạnh lẽo nhất vừa chạy xuyên qua đầu tôi, trườn
dọc sống lưng tôi.
Tôi vung mạnh tay hất đổ, trốc
gốc hết những cây huyết nhân ngải đang khua động, bằng một sức mạnh tiềm tàng
được huy động nhanh chóng, tôi bưng cả những cây ngải khác ném vào lùm dây leo.
Cả số phận cây ngải vua- hoa mai xà vương ngải cũng vậy, tôi nhắm mắt ào tới
hất phăng bằng toàn lực như hất đổ một ngai vàng trong chốn hoàng cung. Tôi hả
người được đôi chút rồi lại bụm mặt khóc nức nở. Mới đây, tôi và chị Hạnh vừa
vui vẻ nâng niu trồng, nhân thật nhiều chậu huyết nhân ngải, cả vườn đầy tràn
huyết nhân ngải, chậu lớn, chậu nhỏ đều trồng huyết nhân ngải, có điều khi ấy,
chúng tôi khéo léo để chúng cách xa nhau… Thoáng cái, tôi đã biến chúng thành
một đống hầm bà lằn, lộn nhào vào nhau, chẳng còn giá trị gì. Những bụi ngải ấy
bỗng nhiên quơ qua quơ lại, rồi gió lạnh mang đầy âm khí cuộn lên, rít lên từ
cái đống hầm bà lằn ấy. Tôi mệt mỏi ngồi bệt xuống, nước mắt tuôn ra ràn rụa,
tôi nhớ lại những cuộc hoan lạc thể xác đầu tiên của chúng tôi, một dòng nhiệt
luyến sôi lên, rung lên, trào lên khi hai cơ thể của chúng tôi đụng vào nhau và
thế giới ảo giác thực sự là thế giới sống của tôi và chị Hạnh. Hạnh ơi! tội
nghiệp cho Hạnh quá. Chúng ta dãy dụa thoát khỏi quy luật nhưng có được đâu, em
hại chết Hạnh rồi… Em sẽ chết theo Hạnh, sẽ chết!… Những chậu huyết nhân ngải
đã ở gần nhau. Gió đã nổi. Em sợ quá Hạnh ơi…
Tôi sợ hãi cái chết, một thứ mà
tôi không biết, nhưng rõ ràng là tôi đang sợ, tôi sợ cái chết trong sự tưởng tượng
của tôi, trong cái gánh lo lắng, lo toan, lo hãi về sự cắt đứt các mối liên hệ
mà tôi tưởng tượng là thuộc về mình. Tôi sợ mất chị Hạnh, sợ mất những nghi
thức tẩy trần đầy lạc thú, sợ mất đi mái tóc dài mượt mà, sợ nỗi đau sẽ ngập
tràn tâm hồn mình, sợ dằn xé, sợ xáo trộn. Không! Tôi thật sự không muốn đánh
đổi những gì đang có, dù nó có là bóng tối đi nữa, dù nó có là bi kịch đi nữa,
dù nó có là chiếc lồng bùa ngải giam giữ tôi đi nữa (xét cho cùng không ở trong
cái lồng này tôi lại ở trong cái lồng khác thôi, tự do tuyệt đối là một ảo
tưởng). Chung cục, tôi chỉ muốn nói một điều: tôi sợ. Bất cứ nơi đâu có một dục
vọng muốn tự vệ thì nơi đó có sự sợ hãi. Tôi muốn thoát khỏi sự sợ hãi này thì
lại gây ra một nỗi sợ hãi khác. Nỗi sợ hãi như một cơn mưa xối xiên vào tâm hồn
tôi làm tôi hổn hển nghẹt thở. Tôi dãy dụa thêm được chút nữa rồi gục xuống,
gục xuống, bẹp người trên bãi cát mơ hồ. Tôi đã trúng độc huyết nhân ngải. Tôi
chỉ kịp biết như vậy rồi thoát nhanh ra khỏi thân xác tôi, một thân xác tội nghiệp
quá đỗi. Tôi hiểu tất cả chúng tôi đều qua đời vì cuộc sống trái khuấy, ngược
đời của mình. Động Trắng giờ đây vắng lạnh, hoang phế, người làng biển nhắc tới
nó như một nơi bị ma ám, quá ghê. Tôi không hiểu vì lời dạy của cha tôi: “Lấy
sáng để hiểu tối, lấy tối để hiểu sáng” hay vì thiên năng, thiên phù gì đó của
huyết nhân ngải mà tôi không bao giờ được siêu thoát. Tôi luôn bay đi bay về
quẩn quanh ở Động Trắng với suối tóc mượt mà đen huyền như của nội tôi, nó
không còn rối xù, vàng chạch như lúc sinh thời mê muội của mình. Dường như luôn
có một thứ nửa bóng tối nửa ánh sáng đang đùa cợt trên những chiếc lá.
Nguyễn Hiệp
No comments:
Post a Comment