TIẾNG
CHUÔNG ĐIỆN THOẠI -
(TG:
Xin hỏi có đồng môn nào nhận diện được nhân vật tên Phong (cựu SV QGHC) trong
bài viết sau đây hay không?)
Có người bảo rằng tiếng chuông điện thoại là
“niềm vui của tuổi trẻ và nguồn an ủi cho tuổi già”.
Đối với bà Thoa, tiếng chuông điện thoại còn
là tiếng gọi của tình yêu khi còn trẻ, là tiếng lòng thương mến khi làm mẹ, là
tiếng gọi mong chờ và là liều thuốc an thần khi nằm trong viện dưỡng lão.
Nhớ thuở xa xưa, lúc tuổi xuân thì, bà có nhan
sắc lại con nhà danh giá, nhiều thanh niên con nhà giàu, học giỏi, đẹp trai
theo đuổi, nhưng không anh nào lọt vào vòng “chung kết”.
Cuối cùng bà “phải lòng” anh phó quận vì tiếng
chuông điện thoại.
Lần đầu tiên, bà gặp chàng qua sự giới thiệu
của cô bạn cùng lớp với bà, trong đêm văn nghệ Mừng Xuân ở sân trường Đại học
Văn Khoa. Lúc ấy, anh chàng không có nét gì độc đáo để bà để ý, nhưng bà tỏ ra
vui vẻ, lịch sự cho đúng phép xã giao. Còn anh chàng, tuy nổi tiếng là tay “tán
phét” có hạng bên trường Quốc Gia Hành Chánh, nhưng khi đứng trước vẻ đẹp cao
sang của nàng, chàng ngẩn ngơ, lúng túng, không nói nên lời…
Những lần gặp gỡ về sau, nàng vẫn không để ý
hay ngây thơ không nhận biết ánh mắt si tình và những cử chỉ vụng về, lúng túng
của chàng; nàng cứ hồn nhiên, vui vẻ với người bạn mới quen như các bạn trai
khác… làm chàng thất vọng!
Nhưng tiếng lòng đã gọi, chàng quyết tâm theo
đuổi.
Qua cô bạn học của nàng, chàng biết: Nàng có
nhiều nơi dạm hỏi, toàn là những tay học giỏi, có bằng cấp, là bác sĩ, kỹ sư..
con nhà giàu. Cha mẹ nàng lại rất khó, còn theo nếp xưa - môn đăng hộ đối. Biết
phận mình, con nhà nghèo ở miền Trung, làm sao tranh nổi với những tay “công
tử” ở Sài Gòn, nên chàng không dám “tấn công trực diện”.
Thế là, đêm đêm, chàng gọi điện thoại thăm
nàng từ một quận lỵ xa xôi, trên vùng cao nguyên xanh mát Lâm Đồng.
Ban đầu chỉ tả cảnh, chưa dám tỏ tình.
Chàng tả nơi chàng đang làm việc: Núi đồi
trùng điệp với những rừng thông bạt ngàn; ở lưng chừng đồi nhìn xuống các thung
lũng xa xa, sương mù bao phủ trên các đồi trà, đồn điền cà phê như làn khói
mỏng - lúc ẩn, lúc hiện - trông như bức tranh thủy mạc. Vào mùa hoa dã quỳ nở
rộ, đi trên con đường uốn lượn lưng đồi, dưới ánh nắng ban mai trong trẻo với
khí trời se lạnh, trông hoa vàng rực rỡ, cứ tưởng như mình đang lạc vào chốn
thiên thai.
Cái giọng Quảng Nam trầm trầm, thỉnh thoảng
chêm vào một câu tán thán ngô nghê: “Răng mà đẹp rứa hè!”. Lúc đầu nghe ngồ
ngộ, nhưng rồi thấy thinh thích, cuối cùng bà “ghiền!”
Vài đêm không có tiếng chuông gọi về, bà nhớ,
bà mong.. khi được nghe lại cái giọng “ngồ ngộ” ấy bà mừng, rồi trách: “Sao mấy
hôm nay không gọi về?”
Thế là chàng tiến lên bước thứ hai - nói
chuyện tâm tình - than thở: lạnh giá, cô đơn...
Không hiểu do những lời tả cảnh, tả tình của
chàng hay do cha mẹ bà nói xa, nói gần việc hôn nhân với anh chàng bác sĩ, con
của bà bạn thân với mẹ, mà bà muốn rời cái nóng bức, nhộn nhịp ở Sài Gòn, lên
vùng cao nguyên mát mẻ với thiên nhiên thơ mộng?
Giữa mùa hè năm ấy, bà xin phép cha mẹ đi nghỉ
mát ở Đà Lạt.
Cái se lạnh của Đà Lạt lồng trong không gian
trong trẻo rực rỡ ngàn hoa: hoa dại ven đường, hoa trước hiên nhà, hoa trong
công viên, hoa leo lơ lửng trên tường, hoa trên đồi thấp...Đâu đâu cũng thấy
hoa, làm cho Đà Lạt thêm thơ mộng. Một ngày ở Đà Lạt, bà có thể cảm nhận được
cái khí hậu bốn mùa: buổi sáng sớm là cái se lạnh mùa xuân, buổi trưa nắng vàng
rực rỡ như mùa hạ, buổi chiều ảm đạm sương mù như mùa thu, và đêm về nếm cái
lạnh của mùa đông. Đà Lạt thơ mộng quyến rũ bà như cơ duyên tiền định.
Qua một người bạn giới thiệu, bà được ông Hiệu
trưởng một trường Trung học tư thục, mời dạy môn Việt văn. Đây là cơ hội để bà
ở lại với Đà Lạt.
Trở về Sài Gòn, bà xin phép cha mẹ cho lên Đà
Lạt dạy học. Có chút lo âu, nhưng cha mẹ bà không ngăn cản vì bà đã trưởng
thành.
Mùa tựu trường năm ấy, bà trở lại Đà Lạt, làm
giáo sư dạy môn Việt văn.
Từ đây, bà được gặp gỡ thường xuyên anh chàng
Phó quận vào những ngày cuối tuần. Bây giờ cả hai, không còn trẻ để mơ mộng
chuyện tình lãng mạn của tuổi đôi mươi. Những buổi chiều bên nhau trên bờ hồ
Xuân Hương hay trên thảm cỏ ở sân Cù, họ trao đổi quan niệm về tình yêu, hôn
nhân, cuộc sống gia đình và xã hội... Cả hai cùng chung quan điểm.
Rồi một bưổi chiều, hai người ngồi sát bên
nhau trong vườn hoa Thung Lũng Tình Yêu, chàng Phó quận run run nắm tay nàng,
thì thầm: “Anh yêu em ngay lần gặp gỡ đầu tiên ở sân trường Đại học Văn Khoa.”
Nàng xúc động, ngả đầu vào vai chàng, khẽ nói: “Tiếng chuông điện thoại đêm đêm
gọi về, đã làm em xúc động, em biết lòng em đã bắt gặp tình yêu.”
Họ trao nhau nụ hôn say đắm với lời nguyện ước
sẽ gắn bó bên nhau suốt đời.
Bà về thưa với cha mẹ chuyện tình duyên của bà
với anh Phó quận và cho cha mẹ biết hoàn cảnh của chàng. Tuy có chút ngỡ ngàng,
nhưng khi nghe bà giải bày tâm sự, cha mẹ chiều lòng con, chấp nhận cuộc hôn
nhân, không còn nghĩ đến chuyện môn đăng hộ đối.
Một năm sau, đám cưới được tổ chức ở hội
trường quận lỵ. Ông Quận trưởng đại diện nhà trai làm chủ hôn (mẹ chàng già
yếu, ở ngoài miền Trung xa xôi, không vào tham dự được). Cha mẹ bà, từ Sai Gòn
lên chứng giám.
Sau đám cưới, chàng đưa nàng ra Trung,
ra mắt con dâu với mẹ. Bà mẹ vui mừng, xúc động, cầm tay con dâu rưng rưng,
nói: “Đám cưới tụi bây, mẹ không vào được, mẹ áy náy vô cùng. Khi thằng Phong
viết thư báo tin sẽ làm đám cưới. Nó bảo mẹ đừng lo, nó sẽ tự lo liệu được… Mẹ
mừng, nhưng không biết rồi sẽ ra sao? Mẹ già yếu, mắt lại mờ, không thể đi xa,
chỉ còn biết cầu xin ơn trên phù hộ cho mọi điều tốt đẹp. Hôm nay các con về
đây thăm mẹ và ra mắt tổ tiên, ông bà, mẹ không biết nói sao cho hết nỗi vui
mừng.”
Bà mẹ thắp nhang lên bàn thờ, lấy khăn lau tấm
di ảnh của chồng, lâm râm khấn vái: “Hôm nay thằng Phong đưa vợ về ra mắt tổ
tiên, ông bà, xin ông chứng giám và phù hộ cho các con được may mắn, hạnh phúc
và sớm có đứa con trai nối dõi tông đường.”
Bà lấy cái tráp cẩn xà cừ trong ngăn tủ thờ,
mở nắp lấy đôi bông tai và chiếc kiềng vàng đeo vào tai, vào cổ con dâu. Ngước
nhìn con dâu, bà nói: “Ngày đám cưới của mẹ, bà nội các con đã đeo đôi hoa tai,
và chiếc kiềng này cho mẹ. Bây giờ mẹ trao lại cho con, coi như bảo vật của gia
đình.”
Bà tiếp tục kể: “Ngày mẹ về làm dâu nhà ông
huyện, mẹ rất lo lắng, nhưng bà nội của các con là người nhân hậu đã chỉ dạy
cho mẹ cách ăn ở, đối xử sao cho phải phép gia phong, dòng họ nhà ông huyện.
Ông nội của thằng Phong làm tri huyện, nhưng gia đình vẫn thanh bạch; bà nội
của các con và mẹ vẫn tiếp tục công việc đồng áng, nuôi tằm, dệt lụa để nuôi
sống gia đình. Ông nội của thằng Phong là ông quan huyện thanh liêm, được dân
kính mến, nên năm 1945, Việt Minh cướp chính quyền, họ không công khai kêu án
tử hình, mà đưa ông đi “an trí” ở đâu đó, gia đình không biết tin. Sau này mới
hay, họ đã thủ tiêu ông trên vùng núi cấm. Dân chúng trong huyện luôn nhắc nhở
tên ông với lòng thương tiếc.”
Bà quay sang, nói với thằng Phong: “Phong à,
trong 9 năm kháng chiến, cha con không chịu đựng được sự gian khổ, mắc bịnh
lao, không có thuốc men chữa trị, cha con qua đời lúc con chưa đầy 6 tuổi. Từ
đó, một mình mẹ làm lụng cực khổ nuôi con. Đến năm 1954, Quốc gia tiếp thu vùng
này, cuộc sống dễ thở hơn, con được đi học. Hết tiểu học, mẹ gởi con ra Đà
Nẵng, học Trung học, rồi con vào Sài Gòn học tiếp... Con được thừa hưởng cái
thông minh và phúc đức của tổ tiên, bây giờ là ông “Phó Quận”. Con phải noi
gương ông nội, làm ông quan thanh liêm để danh thơm cho dòng họ. Con nên nhớ
rằng: ‘Quan nhất thời, dân vạn đại.’ Hành xử thế nào để người dân không ta thán
khi mình làm quan, và không bị phỉ nhổ khi mình về làm dân.” Đến đây bà
bảo: “Ngày mốt chúng ta sẽ làm cỗ cúng tổ tiên, ông bà và mời ít bà con
thân thuộc đến chung vui với gia đình mình”.
Ở chơi với mẹ gần tuần lễ, vợ chồng Phong trở
lại Đà Lạt.
Cuộc sống của họ êm đềm, hạnh phúc và cho ra
đời 2 đứa con trai kháu khỉnh (sinh đôi).
Rồi cuộc chiến mỗi ngày thêm ác liệt, nhưng họ
vẫn còn hưởng được sự bình an, nơi hậu phương tươi đẹp và trù phú ở vùng cao
nguyên. Phong không phải trực tiếp trước trước lằn tên, mũi đạn như các chiến
sĩ ở chiến trường, nhưng mối hiểm nguy luôn rình rập... Dù vậy, đêm đêm vẫn có
tiếng điện thoại gọi về cho bà.
Đến ngày 30/4/1975, đất trời như sập đổ, cuộc
đời của họ cuốn theo vận nước tang thương.
Phong bị bắt! Bà không còn được đi dạy học!
Không thể kể hết những nghiệt ngã họ đã trải
qua, sau ngày Miền Nam rơi vào tay giặc - chồng bị đọa đày 6 năm trong các trại
tù cải tạo; còn bà gian truân nơi chợ trời, bươn chải kiếm sống nuôi con, tiếp
tế cho chồng...
Rồi đến một ngày, chính phủ Hoa Kỳ cho những
người phục vụ trong chế độ cũ, đã bị tù trên 3 năm, được đi định cư trên
vùng đất hứa, họ mới thoát cảnh lầm than.
Những ngày đầu tiên trên đất khách, cũng như
bao nhiêu người tỵ nạn khác, lăn vào công việc, bất kể ngày đêm. Nơi nào có
việc mà người Mỹ chê, là dân tỵ nạn nhảy vào. Phong xin được một chân hốt rác
trong nhà in, còn bà xin làm phụ bếp cho nhà hàng Tàu. Phong làm ban đêm, ban
ngày đi học - mấy năm sau lấy được bằng CPA (Certified Public Accountant). Còn
bà, ngoài giờ làm phụ bếp ở nhà hàng, bà đi học Anh văn.
Số tiền kiếm được trong mấy năm lao động cực
nhọc, ông bà ra thuê căn phố, trương bảng hiệu: “Khai Thuế và Real Estate
Broker.” Lúc ấy nhiều người Việt mới sang, chưa rành tiếng Anh, nên thường đến
nhờ ông khai thuế và nhờ bà hướng dẫn mua nhà.
Văn phòng lúc nào cũng đông khách. Vận may đến
với ông bà như “diều gặp gió”. Thế là giàu và được xem là một gia đình thành
công lúc bấy giờ.
Tuy công việc bận rộn, bà vẫn để tâm đến
chuyện học hành của 2 đứa con trai. Có tiền nên ông bà cho con vào học trường
tư. Qua bậc Trung học, bà cho con vào những Đại học danh tiếng, đóng học phí
rất cao. Nhưng tiền bạc không mua được chữ nghĩa, và hình như ông trời cho cái
này thì mất cái kia - chuyện học hành của 2 đứa con không ra gì. Bà buồn lắm!
Bà thường xuyên gọi điện thoại khuyến khích chúng nó học hành, nhưng vẫn không
đạt được điều mong muốn.
Thời gian qua mau, 2 đứa con trai đến tuổi
trưởng thành, ông bà lo việc hôn nhân cho chúng nó. Rồi chúng nó ra riêng, ông
bà bù đắp mua cho mỗi đứa một căn nhà.
Bây giờ đã đến tuổi về hưu, hai vợ chồng già
hủ hỉ bên nhau trong căn nhà cũ. Tiếng điện thoại vẫn reo đều, nhưng không phải
là tiếng điện thoại của khách hàng hẹn đi xem nhà, hay hẹn giờ khai thuế, mà là
tiếng điện thoại của con dâu, gọi: nhờ mẹ sang trông giúp đứa cháu nội để nó đi
mua sắm, hay tiếng điện thoại của thằng con trai nhờ ba đi đón đứa cháu nội ở trường.
Những tiếng điện thoại ấy làm ông bà bận rộn, nhưng là niềm vui trong hạnh
phúc.
Những lần đi chơi xa, không có bà đi theo, đêm
đêm ông gọi về cho vợ, tỉ tê những chuyện vui buồn nơi ông đang ở, làm bà nhớ
lại kỷ niệm năm xưa. Hay những lần lạc nhau trong shopping mall rộng lớn, tiếng
điện thoại lại reo, để ông đến dẫn bà ra xe, về nhà... làm bà bớt bối rối. Bà
thương chồng và cảm ơn chiếc điện thoại.
Gần 10 năm, từ ngày về hưu, tiếng chuông điện
vẫn reo đều... Cho đến một ngày, ông ra đi đột ngột vì cơn đau tim. Thế là bà
ngậm ngùi, vĩnh biệt một tiếng chuông điện thoại yêu thương.
Sau đó, những tiếng chuông điện thoại thưa
dần, vì bây giờ sức bà đã yếu, đâu còn giúp con dâu trông cháu được nữa. Nó gọi
để làm gì? Thỉnh thoảng đứa con trai gọi đến hỏi thăm sức khỏe, nhưng giọng
không tha thiết như lúc nó còn đi học, gọi về cho mẹ để xin tiền. Đôi lần, vắng
tiếng điện của con, bà nhớ, bà lo: không biết có chuyện gì xảy ra.. Bà gọi cho
con. Khi biết mọi sự bình an, bà mừng. Rồi bà kể lể chuyện: cô đơn, buồn chán,
đau nhức, bệnh tật của tuổi già... Đứa con dâu nghe thấy, nó nói một câu phũ
phàng: “Mẹ nhõng nhẽo, làm nũng đấy!” Thằng con trai thương mẹ cũng an ủi vài
câu, rồi tắt máy. Đến một ngày xui rủi, bà trượt chân té ngã, bị bể xương
bàn tọa, vào nhà thương chữa trị hơn 6 tháng. Bà không đi đứng được nữa, phải
ngồi xe lăn và không tự lo vệ sinh cho mình được. Ở nhà thương có y tá giúp đỡ,
chứ về nhà, con trai bà đâu có chăm sóc cho mẹ được, còn con dâu thì khó trông
cậy. Biết làm sao bây giờ? Bà đành chấp nhận đề nghị của nhà thương chuyển qua
một viện dưỡng lão.
Từ ngày vô viện dưỡng lão, thỉnh thoảng con
trai bà đến thăm vào dịp Tết, Giáng Sinh, ngày Mother’s Day, nhưng rất hiếm khi
được nghe tiếng chuông điện thoại.
Các con của bà chọn một viện dưỡng lão cao
cấp, mỗi tháng trả 5 ngàn đô. Chúng nghĩ như vậy là sung sướng cho mẹ. Thực tế
không sai, vì ở đây có những điều dưỡng viên kinh nghiệm, tận tụy, phục vụ chu
đáo... Tuổi già mấy người được như vậy?
Nhưng tiền bạc không thể đáp ứng được mọi vấn
đề. Ngày xưa, thương con, bà chọn những trường danh tiếng cho con vào học, đóng
học phí rất cao, nhưng tiền bạc không mua được chữ nghĩa. Bây giờ, các con
thương mẹ, chọn nhà dưỡng lão cao cấp, với chi phí cũng rất cao, nhưng không
mua được ước vọng yêu thương.
Ở đây bà mong đợi tiếng điện thoại reo như một
liều thuốc an thần cho bớt cảm thấy cô đơn. Nhưng chồng bà không còn gọi về
nữa, các bạn bè của bà cũng lần lượt ra đi, bà chỉ còn mong tiếng chuông điện
thoại của các con. Nhưng than ôi! Tiếng chuông điện thưa dần rồi mất hút.
Những lúc nhớ đến con cháu, bà gọi về; chúng
nó không bắt phone vì lần nào bà cũng kể lể dông dài, chỉ chừng ấy chuyện,
không có gì mới mẻ. Chúng nó chán và cũng không gọi lại cho bà. Chúng nó ỷ lại,
nếu có điều gì bất trắc, văn phòng viện dưỡng lão sẽ gọi thông báo, chúng nó
đến ngay. Chúng đâu có biết - nghe được giọng nói của con, bà cảm thấy khỏe ra
như được uống viên thuốc bổ.
Ngày lễ Mother’s Day năm nay, 2 đứa con dẫn vợ
con vào nhà dưỡng lão, thăm mẹ. Món quà tặng mẹ trong ngày Mother’s Day là cái
iPhone 14. Từ trước đến giờ, món quà mà bà thích nhất vẫn là chiếc điện thoại
di động (cell phone). Tặng món gì, dù đắt giá hơn, bà cũng không thích bằng cái
điện thoại di động. Biết ý vợ, ông chồng lúc còn sinh tiền, hễ chiếc điện
thoại di động nào mới ra đời, nổi tiếng là mua tặng cho vợ, không cần biết giá
cả bao nhiêu, cũng không cần đợi ngày sinh nhật hay lễ Tết. Bây giờ các con của
bà cũng bắt chước cha mua tặng bà chiếc iPhone 14. Bà cảm động cầm
chiếc iPhone 14 săm soi, rồi cúi xuống, hai giọt nước mắt lăn trên gò má nhăn
nheo, bà thở dài khẽ nói: “Mẹ biết gọi ai bây giờ?”
Lê Đức Luận
04/08/2023
Từ trang DĐQGHCTC
No comments:
Post a Comment