SÔNG DÀI
– Tao là tao còng đầu tụi bây đem về bót nếu đụng trúng con tao.
– Hôm qua chút nữa tụi này làm con Tuyết té bể hai thùng nước nó đang gánh.
Bà Chín má con Tuyết chỉ tay xỉ xỏ bên cạnh là bà Hai ốm ngoại thằng
Liêm vuốt ngực thở dốc:– Hôm qua chút nữa tụi này làm con Tuyết té bể hai thùng nước nó đang gánh.
– Tụi nó làm tui giựt mình đứng tim khi mới vừa bước ra cửa, nó phóng xe cái ào qua suýt trúng tui rồi.
Con hẻm vốn dĩ không rộng rãi lắm giờ lại lao xao mỗi người một câu.
Đứng giữa đám người vây quanh mấy ông bà hàng xóm là hai thanh niên với chiếc
xe Kawasaki màu đỏ. Tôi hỏi thằng Liêm:
– Chuyện gì vậy Liêm, có ai bị họ đụng hả ?– Hổng phải, hai ảnh mới chạy xe vô bị ông Bảy nhảy ra vác củi phang vô xe chận đường chửi quá xá nãy giờ.
Thì ra là anh con nhỏ Mười Ba, tôi không biết anh ta tên gì nhưng nghe
cô em gái gọi là anh Mười một. Gia đình này dọn về ngụ cuối xóm mới hơn nửa năm
nay. Tên gọi theo thứ bậc cho thấy nhà này rất nhiều con, nhưng chỉ có bà má
dáng người mập mạp và hai đứa con một trai một gái ở với nhau. Con gái út được
con nít gọi là chị Mười ba. Anh con trai còn đang đi học, mỗi lần anh ta chạy
xe vào hẻm, người chưa thấy đã nghe tiếng xe bị bể bô nổ điếc tai lại thêm rú
ga ào ào. Vài lần tôi nghe có người ném theo câu chửi bâng quơ khi anh ta chạy
ngang nhà:
– Thứ đồ hippy ôn dịch.
Hôm nay thì nổ ra chuyện lớn. Ba tôi cũng vừa đi làm về đến nhà, thấy
đám đông tụ tập liền hỏi ngay cớ sự. Đa số dân tình trong xóm là người lao động
tay chân nên rất nể nang ba tôi vì ông là dân “ thầy chú “ theo như họ nghĩ.
Ông Bảy mập phân bua:
– Thầy Sáu nghĩ coi cái hẻm bây lớn hè, mỗi lần nó vô là chạy xe ào ào
còn rú ga khiến cả xóm điếc con ráy bất kể giờ giấc sáng trưa chiều tối. Tui
chờ mà đụng trúng con tui là tui quánh liền rồi đi thưa cho ở tù.
Má con Kim Năm đế vô thêm:
– Tụi nó chạy xe kiểu vậy có ngày trúng con tui làm sao ! Hẻm thì toàn
con nít nhỏ hay chơi trước nhà.
Hai người thanh niên biết lỗi nên đứng im ru. Ba tôi ôn tồn nhắc
nhở:
– Hẻm nhỏ hai cháu chạy xe nên cẩn thận chạy chậm, coi chừng trúng mấy
đứa con nít sinh chuyện rầy rà cho mình.
Quay sang bà con trong hẻm ông nói tiếp:
– Tụi nó cũng giống như là con cháu của mình “ Bán anh em xa mua láng
giềng gần”, đã là hàng xóm có gì thì mình khuyên bảo nhẹ nhàng thôi, chuyện đâu
có gì lớn lao nên vui vẻ bỏ qua đi.
Ông Bảy mập vẫn còn hậm hực đe nẹt:
– Từ rày về sau tụi bay vô hẻm là phải xuống xe dắt bộ, nếu không, bà con ở đây cấm không cho dô.
Nghe vậy tôi che miệng cười khúc khích, nhìn bộ mặt thiểu não của anh
thanh niên lạ mặt đi chung với anh Mười Một, cậy đông người tôi thốt lên giọng
tài lanh, nói leo chọc quê:– Từ rày về sau tụi bay vô hẻm là phải xuống xe dắt bộ, nếu không, bà con ở đây cấm không cho dô.
– Vậy là mấy anh phải nhớ nha vô hẻm là coi như khu quân sự phải “ Xuống
xe dắt bộ “, nếu không thì sẽ bị phạt nặng à nhen.
Hai người đồng loạt quay qua nhìn tôi với ánh mắt ngụ ý trách tôi đang
cười trên sự đau khổ của họ làm tôi mất hứng bẽn lẽn quay ngay vào trong nhà.
Sau cái ngày đụng độ với mấy ông bà hàng xóm, Anh Mười Một mỗi ngày đi
học không dám chạy ào ào vào hẻm như trước. Thỉnh thoảng một tuần vài hôm anh
chở thêm người bạn về nhà. Không biết là cố ý hay vô tình hễ cứ đúng giờ trưa
tôi dắt xe đạp ra đi học là thấy hai người cũng lò dò chở nhau đi theo. Có lần
tôi liếc thấy túi áo bạn anh Mười Một đính phù hiệu trường Petrus Ký. Thì ra
anh ta là học sinh trường này.
Một hôm được nghỉ lễ buổi trưa ngồi trước nhà, đang nhâm nhi chén chè mè
đen của bà xẫm già bán dạo, con nhỏ Mười ba đi đến xà xuống ngồi bên cạnh tôi
nói với bà xẫm:
– Cho tui một chén mè đen.
– Em cũng thích chè này hả ? Ngon ghê há, trong mấy thứ chè bà xẫm bán chị chỉ thích món này. Ban nãy thấy em mua hai chén “ lục tàu xá “ mang về rồi mà.
– Mua giùm hai ảnh đó chị ơi. Mấy người con trai khôn lắm, muốn ăn gì toàn kêu mình đi mua, người ta tưởng con gái mình ăn quà vặt dữ dội, ai dè họ mới là sư phụ.
– Bộ hai người đó thích chè đậu xanh lắm hở em.
– Ảnh nói năm nay đi thi ăn đậu xanh, đậu đỏ để gặp may mắn, nhưng tuyệt đối đừng có mua bánh lọt cho ảnh.
Cười thầm trong dạ tôi nghĩ, thanh niên gì mà cũng tin dị đoan giống con
gái:– Em cũng thích chè này hả ? Ngon ghê há, trong mấy thứ chè bà xẫm bán chị chỉ thích món này. Ban nãy thấy em mua hai chén “ lục tàu xá “ mang về rồi mà.
– Mua giùm hai ảnh đó chị ơi. Mấy người con trai khôn lắm, muốn ăn gì toàn kêu mình đi mua, người ta tưởng con gái mình ăn quà vặt dữ dội, ai dè họ mới là sư phụ.
– Bộ hai người đó thích chè đậu xanh lắm hở em.
– Ảnh nói năm nay đi thi ăn đậu xanh, đậu đỏ để gặp may mắn, nhưng tuyệt đối đừng có mua bánh lọt cho ảnh.
– Hi hi, đi thi sợ bị lọt nên cữ ăn bánh lọt, mà anh em học lớp mấy vậy
? Sao chị thấy đi học ngày tới hai buổi lận. Buổi chiều chị đi học cũng thấy
ảnh đi nữa.
– Ảnh đang học lớp Đệ Nhất, mấy bữa bạn anh tới rủ ảnh đi học thêm luyện thi. À bạn ảnh có hỏi em, chị tên gì học lớp mấy đó ? Em đâu biết chị học lớp mấy đâu mà trả lời ảnh.
Nghe con nhỏ kể hóa ra mình cũng được người ta chú ý nên tôi ỏn ẻn làm
điệu trả lời:– Ảnh đang học lớp Đệ Nhất, mấy bữa bạn anh tới rủ ảnh đi học thêm luyện thi. À bạn ảnh có hỏi em, chị tên gì học lớp mấy đó ? Em đâu biết chị học lớp mấy đâu mà trả lời ảnh.
– Chị học lớp Đệ Ngũ em ơi, tên chị thì em biết rồi.
Giấu niềm kiêu hãnh trong lòng tôi chuyển sang câu hỏi:
– À mà sao em thứ Mười Ba lại nhỏ tuổi hơn anh của em nhiều vậy ?
– Ai cũng nói “ giàu út ăn, khó út chịu “, sanh anh Mười Hai xong má nói tưởng hết sinh con, ai dè năm năm sau lại mang bầu nên em thua anh Mười Một bảy tuổi lận.
Buổi trưa đang thong thả đạp xe đến trường, chợt thấy chiếc gắn máy chạy
chầm chậm song song xe tôi, quay nhìn sang tôi thấy anh Mười Một và người bạn,
anh này lên tiếng:
– Chào em. Em gái có mái tóc dài sau lưng đẹp quá.Mắc cỡ tôi ngậm miệng im lặng giấu mặt dưới vành nón lá. Đi một đỗi đến ngã ba anh lại nói:
– Thôi em đi tiếp nhen, tụi anh cũng đến trường đây.
Thế là nhiều buổi trưa đi học thỉnh thoảng tôi lại gặp hai người trên
đường. Biết là người quen cùng xóm nhưng tôi có tính hay cả thẹn, nhất là đang
đi một mình. Đôi lúc bạo dạn lắm chỉ biết gật đầu đáp lại lời chào của hai
người. Suốt nhiều tháng kế tiếp, mối giao hảo láng giềng quen biết của chúng
tôi cũng chỉ dậm chân tại chỗ không tiến thêm bước nào do tôi vẫn giữ im lặng
với vẻ mặt nghiêm trang.
Tháng năm, còn một tháng là nghỉ hè. Vào những ngày đầu tháng năm,
Saigon lại có một cuộc tổng tiến công đợt hai của Việt Cộng sau khi lãnh thất
bại đợt một vào dịp Tết Mậu Thân. Lần này khu vực nhà tôi ở đã không còn được
thần may mắn bảo hộ. Giao tranh xảy ra ác liệt, cả xóm dắt díu nhau chạy dạt
theo đoàn người đi lánh nạn bỏ lại nhà cửa tài sản. Trở về sau khi im tiếng súng,
mọi người không còn nhìn thấy ngôi nhà của mình, toàn bộ giờ chỉ là đống đổ nát
hoang tàn, cháy đen nham nhở gạch vụn. Làm sao tả hết nỗi thất vọng buồn bã
trên từng khuôn mặt, nhất là của ba má tôi. Kể từ ngày hôm ấy gia đình tôi lặng
lẽ bỏ đi không về dựng lại ngôi nhà khác giống những người hàng xóm chung
quanh
Thời gian đầu sống chen chúc trong trại tạm cư, lúc nào tôi cũng nhớ về
căn gác nhỏ sau nhà, cái bàn học bên cạnh cửa sổ nhìn ra trước hiên, nhớ khoảng
sân nhỏ trong hẻm lúc nào cũng có bầy con nít chơi đùa đủ thứ trò chơi trong
ngày nắng ráo, mùa mưa rủ nhau tắm mưa chạy lông nhông giành nhau hứng nước
dưới những máng xối. Nhớ tiếng rao hàng của những người bán rong thành thông lệ
tiếp nối hàng ngày vào mỗi buổi sáng trưa chiều tối. Nhớ chén chè lục tàu xá, “
chí mà phủ “ của bà xẫm già. Những kỷ niệm đúc kết lại thành một khối buồn bã
khiến tôi không dễ dàng quên chúng một sớm, một chiều !
oOo
Kể từ năm Đệ Tứ trở lên tất cả các lớp kế tiếp là Đệ Tam, Nhị và Nhất
của trường đều phải học vào buổi sáng. Mỗi trưa tan học trước lớp bà chị một
giờ, tôi hay có thói quen vào sân chùa ngồi trên chiếc băng đá dưới tàng cây
đang nở từng chùm hoa cát đằng tím đỏ.
Hôm nào cũng vậy, thơ thẩn bên chùa mãi nên tôi biết khắp ngõ ngách và
thuộc lòng từng cội cây, nhánh cỏ nơi này. Cổng chính nhìn ra đường Bà Huyện
Thanh Quan lúc nào cũng đóng kín chỉ mở khi có việc cần thiết. Bên ngoài trên
lề nằm gần góc cửa cạnh ngã ba, nơi các hàng quà rong tụ tập lúc nào cũng có
bầy nữ sinh với tà áo dài trắng đang xúm xít chung quanh.
Từ trong chùa nhìn ra, phía bên trái cũng có một cổng vào kiến trúc y
hệt như cổng chánh, nhưng im ắng hơn, nơi đây có một gian nhà trệt nằm song
song với gian chính điện được xây hai tầng. Thỉnh thoảng ngôi nhà mở cửa tôi
lại nhìn thấy những tà áo xô, vành khăn trắng quấn trên đầu nhiều người đang
quỳ mọp quanh chiếc quan tài đèn nến lung linh đặt phía trong. Là người xa lạ
tôi chỉ có thể ngầm chia sẻ nỗi buồn đau của họ bằng ánh mắt tiếc thương của
mình. Vài lần tình cờ chứng kiến lễ di quan của người đã mất, biết họ là quân
nhân của các binh chủng khác nhau, qua bộ quân phục của những người tham dự
tiễn đưa chiến hữu của mình, cùng theo sau xe chở quan tài là những chiếc xe
GMC có gắn vòng hoa tang. Đứng bên hông chùa nhìn cảnh tượng ấy lúc nào lòng
tôi cũng buồn bã ngậm ngùi.
Chỉ một điều hơi lạ khiến tôi nghĩ ngợi, hình như trong cuộc sống của
mình từ khi hiểu biết đến giờ đều có liên quan đến ngôi chùa. Từ lúc tôi còn là
con bé bốn năm tuổi đã thường xuyên về nhà bà nội mình ở quê vào những ngày hè.
Bà nội tôi xuất gia nên sống trong cái “ am “ nhỏ giữa đồng không mông quạnh để
một mình tu hành. Lớn lên một chút nhà tôi lại ngụ cạnh một ngôi chùa cho đến
ngày nhà bị cháy. Suốt bảy năm trung học ngôi trường lại nằm bên cạnh chùa. Có
phải vô tình một chuỗi liên quan trong đời sống xảy ra như được sắp đặt sẵn,
nhà Phật gọi đây là “ duyên sinh “ ?.
Năm ngoái chị tôi đã học xong lớp Đệ Nhất, năm nay còn lại mình tôi học
năm cuối. Không còn được theo chị, tôi đành phải đi một mình. Cũng may, tôi có
người dì họ nhà gần trường, chỉ cần đi bộ qua hai ngã tư đường là đến. Đúng lúc
này dì lại xin ba má cho tôi đến ở trông chừng nhà giúp cho dì. Căn nhà ba tầng
dì đang cho những người ngoại quốc thuê, gian dưới đất có một phòng riêng dành
cho tôi ở để làm bạn với bà giúp việc. Không muốn giam mình trong bốn bức tường
nửa ngày cho đến tối, sau mỗi buổi học, cơm trưa xong là tôi lại ôm sách vở đến
ngôi chùa cạnh trường ngồi đến chiều.
Chẳng phải chỉ mình tôi đến đây, trong sân chùa có rất nhiều học sinh,
sinh viên hiện diện. Chùa có một giảng đường ở tầng dưới của chánh điện có đầy
đủ bàn ghế, ai muốn vào cũng được và giống như thư viện tất cả đều tự học. Tuy
nhiên phải tôn trọng nội quy là phải im lặng, đi nhẹ nói khẽ vì đây là nơi chốn
tôn nghiêm.
Tôi ít khi vào đây, chỉ thích ngồi ngoài hành lang dựa vách nhìn ra
đường, hôm nào đến muộn đã bị người khác chiếm chỗ vì cũng có nhiều người cùng
ý thích giống mình. Lác đác khắp cây cột sát vách đều có người, trên tay cầm ít
nhất là một quyển sách được mở ra và họ chìm sâu tâm trí vào đó bỏ mặc mọi
tiếng lao xao bên ngoài.
Hôm nay tôi lại đến muộn vì phải thay bà giúp việc rửa mớ chén sau khi
tôi với bà ăn trưa. Bà hối hả lên giúp chị bồi phòng trên lầu làm buổi tiệc để
ông chủ chị này thết đãi vài người bạn dịp ông ta trở về nước vì hết hạn phục
vụ.
Đến chùa chỗ ngồi hàng ngày đã bị người khác chiếm, tôi đành phải ngồi
trên vạt cỏ dưới gốc cây sứ trắng. Đắm chìm với trang sách tôi không hay bóng
nắng lung linh nhảy múa trên chòm lá đã lần lần xê dịch ngay trên đầu, một lát
mồ hôi túa ra tôi mới biết mình đã bị mặt trời chiếu cố. Vươn vai đứng dậy đảo
mắt nhìn quanh tìm chỗ khác, bắt gặp cô bạn mới quen sơ ở đây ngoắt tay rủ tôi
lại chỗ cô ấy ngồi. Thì thầm nhỏ hỏi:
– Chị đến hồi nào, ban nãy đến chỗ thường khi chị ngồi em thấy đã có
người khác, tưởng chị hôm nay ở nhà.
– Tôi có chút việc nhà nên đi muộn hơn mọi hôm. Ngồi chỗ này tê chân quá, tìm bực thềm thả chân xuống ngồi lâu mới được.
Nhỏ đứng bật dậy rủ tôi:– Tôi có chút việc nhà nên đi muộn hơn mọi hôm. Ngồi chỗ này tê chân quá, tìm bực thềm thả chân xuống ngồi lâu mới được.
– Chị đi với em tới chỗ bí mật này.
Những tưởng nó khám phá nơi nào mới dè đâu là hành lang trống trải nằm
phía sau gian nhà trệt. Nơi đây có chiếc băng ghế dài lưng tựa đặt sát vách,
nhỏ rủ:
– Mình ngồi đây là nơi yên tĩnh hơn ngoài kia học dễ vô nhất.
Cô bạn mới này học cùng trường nhưng thua tôi một lớp và năm nay thi Tú
tài 1. Lần đầu ngồi cạnh nhau ở hành lang, lúc ấy tôi đang xem nốt phần cuối
truyện Ngọn cỏ gió đùa của nhà văn Hồ Biểu Chánh, say sưa thả hồn vào từng
trang sách nhưng trực giác cho biết cô bé ngồi bên đang nhìn lén mình. Bất giác
tôi ngẩng đầu nghiêng mắt để bắt quả tang, bị phát giác nhìn trộm con bé cười
gượng giọng giả lả:
– Thấy chị đọc có vẻ say mê quá. Bộ chị thích nhà văn này lắm hả ?
– Tôi thích đọc sách nên nhà văn nào tôi cũng thích, riêng với ông này tôi có cảm tình đặc biệt hơn nên tôi đã tìm đọc gần hết các tác phẩm của ông.
– Vì sao vậy ?
Cô bé hỏi giọng tò mò:– Tôi thích đọc sách nên nhà văn nào tôi cũng thích, riêng với ông này tôi có cảm tình đặc biệt hơn nên tôi đã tìm đọc gần hết các tác phẩm của ông.
– Vì sao vậy ?
– Vì ông có lối viết và dùng những từ ngữ chơn chất của người bình dân
miền Nam xử dụng trong những năm đầu thế kỷ. Tiểu thuyết ông viết mang tính giáo
dục, đề cao đạo đức làm người theo Nho giáo và thuyết nhân quả nhà Phật. Đọc
truyện của ông thấy đầu óc nhẹ nhàng sau khi kết thúc. Nhưng quan trọng nhất là
ông hay lấy bối cảnh ở địa phương, tên gọi một con lộ, vùng đất, quận lỵ khiến
tôi cảm thấy mình yêu mến thêm đất nước khi hình dung nó qua trang sách.
– Ủa ! Lạ quá hen, mà sao chị lại có cảm giác như vậy.
Tôi cười sảng khoái:– Ủa ! Lạ quá hen, mà sao chị lại có cảm giác như vậy.
– Tại đa số danh xưng, tên gọi làng mạc địa phương ông diễn tả trong
truyện là làng quê của ông bà nội tôi, của cha tôi và là nơi tôi sinh ra chứ
sao ! Đọc một bài báo, một quyển truyện được tác giả đề cập, dù chỉ dính líu
một cái tên quen thuộc nhắc đến xứ sở, gốc gác mình thì tự nhiên thấy lòng lâng
lâng, vui vui và hãnh diện, tự hào khó diễn tả được hết.
Bỗng nhiên cô bạn tôi cười hớn hở lạ thường và nói:
– Chị có quen tác giả này không ?
– Biết tên thôi, nếu còn sống chắc cũng bằng ông nội, ông ngoại mình.
– Ông là ông ngoại của em đó chị ơi, em là cháu ngoại của nhà văn Hồ Biểu Chánh.
Sửng sốt tôi kêu lên:– Biết tên thôi, nếu còn sống chắc cũng bằng ông nội, ông ngoại mình.
– Ông là ông ngoại của em đó chị ơi, em là cháu ngoại của nhà văn Hồ Biểu Chánh.
– Ý trời, sao lại có chuyện hy hữu này nữa ha. Hổng lẽ mình có duyên với
nhau.
Tôi còn nhớ có lần cô giáo dạy Văn đã giảng: Nhà văn khi dựng nên tác
phẩm, nguyên tắc chung khi đề cập đến bối cảnh diễn tả có liên quan đến từng
chi tiết của vùng, miền, tên gọi của làng xóm, người diễn tả tinh tế nhất thông
thường phải là người sinh ra hoặc lớn lên từ nơi ấy hoặc ít nhất là sống một
thời gian ngắn hoặc có lần đi ngang địa phương đó. Bài văn hay quyển tiểu
thuyết được người đọc đánh giá cao tùy thuộc vào những chi tiết chính xác khi
đề cập đến không gian, thời gian trong đó cho dù chuyện chỉ là hư cấu. Môn học
Sử Địa thường được ghép song song cùng môn Văn thành bộ ba Văn Sử Địa. Các giáo
sư dạy môn Văn của trường tôi đa số đều có khả năng dạy luôn hai môn Sử Địa. Ai
bảo chương trình học hai môn này là thừa thãi.
Lòng vui vui khi tình cờ quen em tôi ỡm ờ:
– Biết đâu em với tôi là bà con thời ông cố nội, cố ngoại mình mà mình
không biết.
Cả hai mỗi đứa đang ngồi ôm quyển sách “ tụng niệm “ để chuẩn bị “ vượt
vũ môn “, bỗng nhiên một nhà sư trẻ từ trên chùa đi ngang qua chỗ hai chúng tôi
ngồi. Ông đến mở chốt và bung hai cánh cửa ra. Đứng bật dậy tôi nhìn thấy bên
ngoài lao xao một đám người, họ thận trọng hạ bửng chiếc xe GMC xuống và nhấc
cẩn thận một cổ quan tài trên phủ lá cờ vàng ba sọc đỏ.
Thì ra chỗ chúng tôi ngồi là hành lang dẫn đến hai cánh cửa thông ra bên
ngoài. Từ nơi này người ta sẽ chuyển những chiếc quan tài vào quàn bên trong
gian nhà trệt trong sân chùa.
Chỉ huy là một anh lính trẻ mặc bộ quân phục màu xanh tím sậm, trên vai
mang lon có vòng tròn màu vàng, tôi không biết cấp bậc gì nhưng thấy anh ra
lệnh cho nhóm lính di chuyển chiếc quan tài theo chỉ dẫn của nhà sư. Đi theo
sau là một nhóm người gồm đàn ông đàn bà và cả trẻ con. Tôi đoán họ là thân
nhân của người quá cố. Có lẽ anh lính trẻ chỉ có nhiệm vụ giúp thân nhân mang
quan tài từ đơn vị ở mặt trận về chùa. Việc còn lại là do nhà chùa sắp xếp nên
sau khi mọi việc xong xuôi anh này bước ra bên ngoài, ngồi đàng kia dở gói
thuốc ra hút gương mặt có vẻ mệt mỏi. Tôi nhìn thấy anh lính rất quen, ngờ ngợ.
Nhất thời chưa thể nhớ ngay nên hạ giọng thì thầm với con nhỏ:
– Nhìn anh lính ngồi hút thuốc đàng kia trông hao hao một người quen.– Là người quen vậy lại hỏi thăm là biết liền chớ gì !
– Chẳng biết có phải hông sợ người giống người, lỡ không đúng thì mình quê lắm.
– Có gì mà quê, hỏng phải thì thôi, ai ăn thịt mình mà sợ.
– Khoan đã, để từ từ mình nhớ xem đã gặp anh này ở đâu nè, hình như ba bốn năm về trước lận.
– Xời ơi, lâu vậy hả làm sao chị nhớ !
– A nhớ rồi ! Vào năm nhà chị bị cháy.
– Bộ anh giúp chữa lửa nhà chị à ? Anh ấy tên gì vậy ?
Tôi phì cười trước câu hỏi trật lất của con nhỏ:
– Hổng phải, anh ấy là bạn anh hàng xóm thôi, kẹt cái là mình không biết
tên anh ta.– Nhưng anh ấy có biết chị không ?
– Hồi đó thì biết nhưng bây giờ chắc gì anh ta còn nhớ.
Con bé hăm hở nói:
– Hông nhớ thì mình nhắc cho anh ấy nhớ.
Nói xong con bé xăm xăm đi đến chỗ anh lính đang ngồi hút thuốc. Không
kịp ngăn cản con nhỏ nên tôi thẹn quá cúi mặt nhìn xuống mũi giày vì ai ngờ nó
bạo dạn quá mức. Trái tim tôi đập hồi hộp vì tôi đã nhớ ra, anh lính này giống
bạn của anh Mười Một năm ấy. Khi anh ta đứng dậy bước đến chỗ tôi, ngần ngại
một chút tôi bạo gan hỏi:
– Xin lỗi, phải anh là bạn anh Mười Một, ngày trước có một thời gian anh
hay ghé xóm chùa để đi học chung với anh ấy.
Không cần đề cập dông dài, anh xác nhận ngay:
– Đúng năm, anh là bạn của Mười Một đây. Anh nhớ rồi em là cô nữ sinh có
mái tóc dài nhà ở bên hông chùa, trưa nào đi học cũng gặp em. Nhìn phù hiệu
trên áo em là anh nhớ ngay.
Tôi mỉm cười mừng rỡ vì cũng đã hơn bốn năm mà anh cũng còn nhớ đến tôi
mặc dù chỉ biết nhau sơ qua:
– Dạ đúng, nhưng bây giờ em học buổi sáng và em đã cắt bớt tóc rồi, chỉ
còn để quá vai một chút như vầy thôi. Lâu vậy mà anh cũng còn nhớ ra.
Con nhỏ chen vô:
– Vậy anh chị đúng là người quen cũ rồi ha, chị phải đãi em một chầu chè
mới được.
Ra vẻ đàn ông anh nói:
– Cho phép anh đãi hai cô nhân dịp gặp lại người quen.
Chúng tôi rủ nhau sang cái quán nước đối diện bên hông chùa. Quán nhỏ
chỉ có vài bộ bàn ghế nằm dưới những tàng cây trong căn biệt thự cũ. Quán bán
độc nhất một món chè đậu xanh nguyên hạt cả vỏ, thêm vài chai nước ngọt bày sơ
sài trên bàn, được một thứ là chỗ ngồi kín đáo không phải đứng túm tụm quanh
mấy cái xe ngoài kia. Tôi nói với anh:
– Năm nay là năm thi, tụi em ăn chè đậu xanh để lấy hên và nhất là không
có bánh lọt. Hồi trước, khi em Mười ba mua chè đậu xanh cho hai anh hay nói
vậy.
Tôi và anh cùng cười khi nhắc lại những kỷ niệm cũ ở Xóm Chùa, chuyện cũ
trong xóm nhắc lại lan man làm cô bạn đi chung phát chán nên xin phép về trước
sau khi thanh toán sạch sẽ hai ly chè.
Anh kể, sau đợt hai Mậu thân anh có ghé lại xóm thăm gia đình anh bạn
nhiều lần nhưng không gặp tôi. Anh hỏi bé Mười ba mới biết gia đình tôi rời chỗ
đó đi luôn không về cất nhà lại. Anh học thêm một năm đại học rồi đi lính theo
luật tổng động viên.
Tôi ngậm ngùi kể lại nỗi buồn của gia đình trong cơn chiến nạn nên ba
tôi không muốn về lại chốn cũ, chúng tôi lăn lóc sống trong các trại tạm cư do
chính phủ xây dựng trong khi chờ nhà nước cất lại các chung cư cấp phát cho
dân. Thấy tôi buồn khi nhắc lại chuyện cũ, anh pha trò:
– Lúc ấy anh đang tham gia với đoàn Sinh viên học sinh đi cất nhà cho
đồng bào trong trại tạm cư, biết đâu căn nhà em ở lúc đó là do anh cất cho.
Tôi cũng cười:
– Nếu đúng như thế là do duyên mà ra. Nhưng hồi đó anh đen hơn, bây giờ
hơi khác và “ già “ hơn.
Nói xong tôi giơ tay bịt miệng mình giấu nụ cười. Lắc đầu ngắm tôi cười
anh kể:
– Thời gian anh đi học trường OCS bên Mỹ khi về ở nhà bảo anh trắng ra.
Chắc nhờ thay đổi khí hậu và môi trường. Còn em bây giờ cũng thay đổi hơn xưa,
nhất là không nhát như “ cáy “ nữa. Đi ngoài đường anh không thể nào nhận ra cô
bé tinh nghịch hồi đó bây giờ lớn và dễ thương như vầy.
Tôi cúi đầu mắc cỡ mặt đỏ ửng trước lời tán tỉnh khéo léo này, nhưng bản
tính lém lỉnh ngày trước cũng vẫn chưa thay đổi, tôi trả đũa ngay:
– Nhưng mà thương không dễ.– Ừ, đúng rồi, muốn thương cũng không dễ. Mười Một nó kể “ trong xóm chỉ duy nhất nhà em có hai cô con gái học trường GL nó muốn làm quen nhưng khó quá. Mỗi lần chạy ngang nhà rồ ga liếc mắt nhìn vào xem có cô nào nhìn ra không thì gặp ngay đôi mắt “ cảnh sát chìm “ của má em canh chừng ngay cửa làm nó bỏ chạy tóe khói. Mười Một báo hại hôm đó anh đi chung chút xíu bị ăn củi đòn của cái ông mập phang vào.
Tôi cười nắc nẻ:
– Ha ha lúc đó nhìn mặt hai anh tức cười quá trời.– Xui mà hên vì nhờ vậy mới có cơ hội gặp mặt nhau và “ Phút đầu gặp em tinh tú quay cuồng, lòng đang giá băng bỗng ngập tràn muôn tia nắng “.
Riêng tôi không biết mình may mắn hay xui xẻo gặp anh chàng tán gái dẻo
miệng như thế này, nhưng thú thật lòng tôi vui và ấm áp trước ánh mắt nồng nàn
anh đăm đăm nhìn tôi.
Qua ngày hôm sau khi đến chùa tôi lại trông thấy anh mặc bộ quân phục
trắng toát mới biết anh là Sĩ quan trong Quân chủng Hải Quân. Anh mới vừa ghé
qua Bộ tư lệnh để xin toán dàn chào dành cho ngày mai làm lễ hạ huyệt. Sau ngày
đưa xác người bạn cùng đơn vị về cho thân nhân mai táng, Anh còn nghỉ phép thêm
một tuần và chúng tôi có dịp gặp nhau thêm nhiều lần nữa. Hôm chia tay trước
khi trở về đơn vị đóng ở duyên hải miền Trung. Anh đã nắm tay hẹn ước sẽ viết
thư cho tôi và mong nhận được hồi đáp. Bàn tay nhỏ mềm của tôi bất giác run rẩy
như có làn điện truyền qua bởi cái nắm tay đầu đời với người khác phái. Có phải
định mệnh đã gieo mầm gắn bó từ đây ở hai chúng tôi ? Những ngày sắp đến với
tôi sẽ vui hay buồn tôi chưa thể biết nhưng lòng tôi không còn yên ả như mặt hồ
thu trước kia nữa rồi !
oOo
Không cần dài lâu sau khi đáp lời lá thư đầu tiên, lá thư thứ hai tôi
nhận được không phải là lá thư bình thường như cái trước. Lời lẽ trong thư làm
cho nhịp tim tôi thay đổi, lòng xao xuyến bối rối mặc dù biết rằng sẽ có ngày
nầy. Tôi không biết những người con gái khác lần đầu tiên được tỏ tình cảm giác
có giống tôi chăng ? Tôi đọc trong sách, xem phim, coi cải lương thấy không có
trường hợp nào giống để tôi trả lời cho anh ! Cũng may là trong thư, không phải
ngoài đời, nếu không tôi chẳng biết mình sẽ ra sao ! Bí mật chỉ riêng mình tôi
giữ không thể thổ lộ cùng ai, chỉ biết tìm góc vắng cầm lá thư đọc lại không
biết bao nhiêu lần. Từ chối thì chắc chắn là không rồi, chẳng lẽ viết vào câu
thú nhận “ em cũng yêu anh “ như vậy dị quá. Má tôi lúc nào cũng răn đe chị em
tôi và rao giảng luân thường, đạo lý là con gái phải ngồi chờ người ta đem trầu
cau đến xin bàn tay về làm vợ, giống như những cây cột phải để trâu tìm đến.
Còn bàn tay tôi đã trót cho anh nắm cùng hôm ấy rồi, đối với riêng lòng tôi nó
giống như lời đính ước. Suy nghĩ tôi quá cổ lỗ so với thế kỷ hai mươi này nhưng
biết làm sao hơn. Tôi ngắt từng cánh hoa để hỏi rằng nên thổ lộ lòng mình hay
im lặng !
Theo lệ khi nhận được thư là tôi hồi âm ngay và anh sẽ nhận được trong
tuần. Lần này phải đến hai tuần suy nghĩ tôi mới viết thư trả lời, trong thư
tôi không nhắc gì đến lời tỏ tình của anh. Tôi vẫn vui vẻ bình thường kể chuyện
Saigon dạo này đang có mode các cô gái trẻ mặc áo dài bằng lụa màu đen tuyền
với quần trắng. Chắc do dư âm đau buồn của mùa hè đỏ lửa từ chiến trận lan về,
các cô bỗng trông thấy “ hay hay “ nên thành mode.Bỗng dưng tôi nhớ một câu trong Chinh phụ ngâm khúc “ … Vì chàng điểm phấn đeo hương não nùng ! “. Chỉ một câu thơ đã gợi mở nỗi buồn ai oán của người vợ lính cố vui trong những ngày chàng về phép. Câu thơ nhắc tôi nhớ lại hơn nửa năm trước, khi giặt quần áo đi làm việc của ba tôi, soát các túi áo tôi trông thấy tờ giấy đánh máy gấp lại là thư mời dự tiệc của người bạn chung sở nhân dịp ông có người con rể được vinh thăng Đại Úy Hải quân. Vậy mà bây giờ ở trang tư của tờ nhật báo tôi đọc một tin chia buồn Cố Thiếu Tá Hải Quân Đoàn Hồng Hải đã anh dũng hy sinh !! Cái tên và cấp bậc không thể trùng với ai khác.
“ … Lấy chồng thời chiến chinh, mấy người đi trở lại ! Mà lỡ mình không
về thì thương người vợ chờ.. bé bỏng chiều quê “.
Hình như tôi sinh ra là để làm người yêu, là vợ của lính bởi trong mắt
tôi không có ai khác đẹp đẽ, hào hùng, anh dũng hơn hình ảnh người lính. Lá thư
kế tiếp tôi không trực tiếp trả lời mà chỉ viết “ Với em tình yêu không chỉ là
nói suông “. Thâm tâm tôi chỉ muốn nhắc cho mình luôn nhớ quy định của riêng là
“ chỉ yêu người nào khi biết chắc mình sẽ lấy người đó làm chồng “. Thời buổi
chiến tranh đến hồi khốc liệt, được về phép là chuyện hiếm hoi, nhưng một lần
chia tay anh trở về đơn vị, tôi ví anh giống như con cá ra sông về biển có thể
lâu lắm mới về hay sẽ biệt tăm ! Nhưng ca dao đã có câu:
“ Sông dài cá lội biệt tăm,
Phải duyên chồng vợ ngàn năm vẫn chờ “.
Tôi hiểu mình từ cái nắm tay đầu tiên mầm yêu thương đã hé nụ khiến tôi
phải gắn bó và đợi chờ anh.Phải duyên chồng vợ ngàn năm vẫn chờ “.
Cỏ Biển
Mùa thu 2015
304Đen – llttm - DSCMùa thu 2015
No comments:
Post a Comment