Trong Lửa Đỏ, Giữa Sự Chết, Trên Quê Hương!
Một – Cách đây 50
năm, tại Nghĩa Trang Quân Đội Gò Vấp, Gia Định những buổi chiều mưa dầm Tháng 6
miền Nam, anh xoay trở quay quắt giữa những thây chết của những người lính
thuộc đơn vị đầu đời, Tiểu Đoàn 7 Nhẩy Dù, Tiểu Đoàn 52 Biệt Động, Tiểu Đoàn
2/7 Sư Đoàn 5 Bộ Binh.. Những người chết của chiến trận Đồng Xoài, Bình Dương
nổ ra từ những ngày đầu Tháng 6. Đối với một gã lính vừa qua tuổi 20 năm ấy, sự
mất mát của hàng trăm chiến hữu chỉ được đưa về sau nhiều ngày kể từ khi tử
trận quả là một sự đau thương quá lớn.. Thân thể người chết căng cứng, xanh
đen, tím thẫm, dòi bọ lúc nhúc bò theo những vết thương sũng máu. Khoảng đất
nghĩa trang đặc sánh bởi máu, thịt, con người chảy vữa, sền sệt.. Trong đó có
máu, thịt của bạn anh, Thiếu Úy Trần Trí Dũng, gã học sinh đã cho bạn cùng lớp
và toàn Trường Phan Châu Trinh Đà Nẵng niềm hãnh diện.. Vô địch bóng bàn học
sinh, thủ quân đội bóng rổ, cũng là trung phong hàng đầu của đội tuyển bóng
tròn trường trung học đá hay nhất miền Trung. Nhưng giờ đây, tất cả dạng hình
tươi trẻ sống động của Dũng với lúm đồng tiền trên má không còn nữa.. Kéo
fermeture(cái khoá-kéo*) bao đựng xác – Bạn anh, người bạn ấu thơ của Đà
Nẵng hơn mươi năm trước bấy giờ chỉ là một thây xác sùi sụp nước nhờn tím thẫm
hôi hám. Có chăng được phần an ủi: xác Dũng còn nguyên dạng hình chưa bị vữa
nát. Buổi đá banh năm xưa ở Sân Vận Động Chi Lăng làm sao tưởng ra tình cảnh
nầy Dũng ơi?!
Xóm nhà dân trước nghĩa trang phải di tản vì mùi hôi thối bốc kín đặc
khoảng không. Tiếng kêu khóc của thân nhân tử sĩ âm âm oán thán, xót xa, xé
cắt.. Có bà cụ vật vã thều thào bên chiếc poncho gói xác người vừa lật mặt..
Nam ơi! Nam ơi! Sao cháu bỏ bà.. Anh ngồi xuống bên cạnh bà cụ.. Bà ơi, con
cũng tên Nam, cha mẹ con không còn, con gọi bà bằng bà thay anh Nam. Trở về hậu
cứ đơn vị nơi phi trường Biên Hòa, sân cờ tiểu đoàn trắng màu khăn tang, con
trẻ chạy thất thanh quanh những người mẹ đang nằm lăn trước bậc thang các văn
phòng đại đội.. Thiếu úy ơi! Thiếu úy ơi! Hóa ra anh là sĩ quan còn sót lại của
một tiểu đoàn nhảy dù mà từ tiểu đoàn trưởng, tiểu đoàn phó, 4 đại đội trưởng
đồng tử nạn.. Không biết Đại Úy Phát, đại đội trưởng Đại Đội 74 và đám quân
binh thất lạc nay đang ở đâu. Thế nên, những tưởng Tháng 6 năm 1965 đã quá sức
chịu đựng của con người – Cho dẫu là người lính có khẩu hiệu Nhẩy Dù Cố Gắng!
Hai – Từ trên
trực thăng ở Quảng Trị đổ về Huế trong ngày Mồng Bốn Tết Âm Lịch anh đã thấy ra
một Thành Phố Huế chết lặng. Người Huế chết khi ẩn núp sau những gốc cây bị
pháo, hỏa tiễn cộng sản bắn lật ngược, cạnh hàng rào chè cháy xém; trên lề
đường với mỗi viên gạch đồng bị vỡ vụn, nơi sân nhà trước chiếc bàn thờ xiêu
đổ.. Người chết đang qùy lạy ông bà, với áo mới thấm máu, xé rách, con trẻ còn
cầm trong tay bao đỏ tiền lì xì đầu năm.. Tuy nhiên cảnh chết của Huế không chỉ
xẩy ra trong khu Thành Nội, trên đường Mai Thúc Loan, Đinh Bộ Lĩnh, khu sân bay
Tây Lộc, ở những cửa thành Thượng Tứ, Đông Ba.. Chết ở Huế trùm khắp mọi chốn,
tại mỗi phân đất tại vùng Bãi Dâu, bên cạnh Sông Hương, nơi sân Trường Gia Hội,
Chùa Áo Vàng.. Và sau ngày quân cộng hòa chiếm lại Kỳ Đài, đám cán binh cộng
sản gồm du kích, nội thành, và bộ đội miền Bắc bị đánh bật ra khỏi khu cố thủ
Gia Hội, trên đường rút lui mang theo những tù nhân vốn chỉ là con trẻ vị thành
niên, người già, phụ nữ.. những đối tượng làm con tin cho lần tháo chạy. Thế
nên cuối cùng, thì cảnh chết, sự chết đã hiện thực, vượt khỏi sự tưởng tượng
của bất cứ ai còn có Nhân Tính – Bởi người Huế đã liên tiếp bị thảm sát do
những kẻ cùng chung khu phố, chung xóm nhà cư ngụ. Không sót một người. Không
trật một người. Người Huế bị giết do một Sự Ác được ngụy danh là “giải phóng”,
để thỏa mãn mặc cảm vô dụng, hèn kém của những kẻ gọi là “trí thức cách mạng”,
điển hình đặc chất Huế như Hoàng Phủ Ngọc Tường, Hoàng Phủ Ngọc Phan, Nguyễn Đắc
Xuân, Nguyễn thị Đoan Trinh, Tôn Thất Dương Kỵ.. Người Huế chết chật hết những
bụi lùm ở Khe Đá Mài vùng núi Ngũ Tây; sùm sụp bước chân của đoàn người tìm
kiếm trong những ngày hè cùng năm năm 1968. Hơi thây chết bốc lên theo nắng đầu
hè miền Trung ong óng như hờn oan. Nhưng hỡi ôi! Chết ở Huế cũng chưa đủ cho
cuộc đau thương của người Việt. Người Việt miền Trung chiếm đầu bảng oán hận.
Không phải đợi dài lâu.
Ba – Anh đang ở
trên cây số 9 kể từ Quảng Trị đến vùng thôn Mai Đẳng, xã Hải Lăng..Không
thể dùng một chữ, một tĩnh từ, không thể nói, khóc, la, trước cảnh tượng trước
mặt, chỉ có thể im lặng, chỉ có thể nghiến răng, bặm môi, dù răng vỡ, môi chảy
máu tươi, tay luống cuống, mắt mờ nhạt, mũi phập phồng. Không có thể biết gì về
thân thể đang mở ra trước sự tàn khốc trước mặt.Trời ơi ! Hình như có tiếng kêu
mơ hồ dội ngược ở trong lồng ngực, trong cổ họng, nơi óc não, hay chỉ là ảo
giác của con người mất hết khả năng kiểm soát. Kiểm soát làm sao được nhịp đập
của quả tim, không ai ngăn cản cơn chớp liên hồi của đôi mắt, tay nổi da gà,
những sợi gân ở thái dương phồng lên đập xuống – Máu chảy ngúc ngắc trăn trở
lăn lóc khô khan khó nhọc trong những gân căng đến độ chót … Cũng không phải
như thế – Anh không biết, hoàn toàn không biết được gì của xác thân. Anh không
còn là người đang sống, vì sống là sống cùng với người sống, chia xẻ vui buồn,
đau đớn lo âu với người sống. Chung quanh anh trước mặt chỉ còn một hiện tượng,
một không khí – Chết. Phải, chỉ có Sự Chết bao trùm vây cứng. Chỉ có nỗi chết
đang tầng tầng phủ chặt kín không gian. Cho dù rằng, Tháng 4, 5, 1972 ở An Lộc
với những ngôi mộ vô danh, mộ tập thể, những cái chết câm lặng đến độ chót của
đau đớn kinh hoàng, người cha trầm tĩnh đi tìm từng cái chân, cánh tay của năm
đứa con vừa bị tan thây vì quả đạn đại pháo, nhưng lại còn được một nấc chót –
Bên cạnh người chết vẫn còn người đang sống – Ở An Lộc, anh thấy được loại
người cuối đáy đau thương đó. An Lộc lại quá nhỏ, chỉ hơn một cây số vuông, cái
chết cô đặc lại, ngập cứng vào người nhanh và gọn như nhát dao ngọt. Cái đau
đến chớp mắt, người chưa kịp chuẩn bị thì đã ngập hẳn vào trong!
Nhưng ở đây, thôn Giáp Hậu, Mai Đẳng, Hải Lâm của Quảng Trị thì khác hơn
An Lộc một bậc, hơn trên một tầng, tầng cao ngất chót vót, dài hơn An Lộc một
chặng, dài hun hút mênh mông.sự chết trên 9 cây số đường này là 9 cây số trời
chết, đất chết, chết trên mỗi hạt cát, chết trên đầu ngọn lá, chết vương vãi
từng mảnh thịt, chết từng cụm xương sống, đốt xương sườn, chết lăn lóc đầu lâu,
chết rã rời từng bàn tay cong cong đen đúa … Anh đi theo chiếc xe công binh ủi
một đường dài, những xác chết, không, phải nói những bó xương bị dồn cùng áo
quần, vật dụng, chạm vào nhau nghe lóc cóc, xào xạc, “đống rác” người ùn ùn
chuyển dịch, một chất nhờn đen đen ươn ướt lấp lánh trên mặt nhựa – nhựa thịt
người !!Trời nắng, đồng trắng, con đường im lìm, động cơ chiếc xe ủi đất – phải
gọi xe ủi người mới đúng – vang đều đều, hơi nắng bốc lên từng đường trên mặt
nhựa, hơi nặng mùi … Vạn vật chết trong lòng ánh sáng. Ánh sáng có mùi của Sự Chết.
Nếu cảnh chết tập thể của người Do Thái ở các trại tập trung gây nên niềm bàng
hoàng xúc động, vì thế giới chứng kiến, thấy ra được những “xác người,” chồng
chồng lớp lớp. Chín cây số đường chết của Quảng Trị không còn được quyền dùng
danh từ “xác chết” nữa, vì đây chết tan nát, chết tung tóe, chết vỡ bùng … Chết
trân tất cả mọi cái chết.Không còn được “người chết” trên đoạn đường kinh khiếp
đến tột độ của chốn quê hương thê thảm đọa đày.
Anh ra khỏi 9 cây số đường kinh hoàng đến La Vang Thượng, xuống đi bộ vào La Vang chính tòa, nơi Tiểu Đoàn 11 Dù đang chiếm giữ. Hai cây số đường đất giữa ruộng lúa xanh cỏ, anh đi như người sống sót độc nhất sau trận bão lửa đã thiêu hủy hết loài người.Đường vắng, trời ủ giông, đất dưới chân mềm mềm theo mỗi bước đi, gió mát và không khí thênh thang. Anh ngồi xuống vệ đường bỏ tay xuống ao nước kỳ cọ từng ngón một. Anh muốn tẩy một phần sự chết bao quanh ? Có cảm giác lạ : Anh vừa phạm tội. Tội được sống.
Anh ra khỏi 9 cây số đường kinh hoàng đến La Vang Thượng, xuống đi bộ vào La Vang chính tòa, nơi Tiểu Đoàn 11 Dù đang chiếm giữ. Hai cây số đường đất giữa ruộng lúa xanh cỏ, anh đi như người sống sót độc nhất sau trận bão lửa đã thiêu hủy hết loài người.Đường vắng, trời ủ giông, đất dưới chân mềm mềm theo mỗi bước đi, gió mát và không khí thênh thang. Anh ngồi xuống vệ đường bỏ tay xuống ao nước kỳ cọ từng ngón một. Anh muốn tẩy một phần sự chết bao quanh ? Có cảm giác lạ : Anh vừa phạm tội. Tội được sống.
Bốn – Nhưng cuối
cùng..Hóa ra, Khổ Đau/Sự Chết nơi chiến trận Đồng Xoài 1965 chỉ là khúc dạo đầu
phần bi thảm với những người lính tử trận. Cuộc tàn sát Mậu Thân, 1968 cũng
trong giới hạn của ngàn người dân Thành Phố Huế bị đập đầu, chôn sống. Và cho
dẫu ngọn lửa Mùa Hè 1972 gớm ghê khốc liệt bao nhiêu cũng chỉ bùng cháy, tiêu
hủy các thị xã An Lộc, Kontum, Quảng Trị.. Hóa ra Địa Ngục Miền Nam không chỉ
chừng ấy. Hóa ra khổ đau Miền Nam không chỉ với vài ngàn, vài chục ngàn người
chết, những thị xã bị tiêu hủy.. Tai ương Việt Nam/Thảm Họa Miền Nam thăm thẳm
vô bờ với mùa xuân uất hận không thể nào quên, dẫu hôm nay 40 năm sau 1975.
Chúng ta hãy nhìn lại đoạn đường máu thẫm của một Dân tộc bị đọa đày trên quê
nhà điêu linh.. Đầu xuân năm 1975, vào buổi Tháng Ba, thêm một lần người Miền
Nam tự hỏi: Cộng sản sắp đánh ở đâu? Khi nào sẽ đổ ra thêm một trận máu xương
với lực lượng cộng sản miền Bắc nhất quyết thực hiện bước cuối cùng cái gọi là
sự nghiệp “giải phóng miền Nam thống nhất đất nước”. Sự nghiệp cách mạng mà 40
năm sau 1975 bày ra tình cảnh nguy nan vô hạn với hiểm họa mất nước về người
Hoa, và xã hội Việt Nam chìm ngập xuống vực thẳm băng hoại, suy vong.
Vào Tháng Ba năm 1975, lãnh thổ miền Nam đã bị mất một phần thuộc phía
bắc sông Thạch Hãn, Quảng Trị của quân Khu I; ở Quân Khu II mất phần đất nằm về
mặt bắc và tây của vùng Trường Sơn; Và quanh Sài Gòn một vùng rộng lớn của miền
Đông Nam Bộ từ thượng lưu sông Đồng Nai qua Phước Long, Bình Long, Tây Ninh về
Long An, Hậu Nghĩa, xuống Kiến Tường, Định Tường thuộc châu thổ sông Cửu Long.
Trong tình hình chung như vừa kể, Thiếu Tướng Phạm Văn Phú Tư lệnh Quân Đoàn II
đóng ở Pleiku lúc ấy không thể quyết đoán cụ thể về kế hoạch quân cộng sản sẽ
đánh ở đâu trong vùng Quân Khu II. Trong khi ấy, cộng sản Hà Nội lập kế hoạch,
bắt đầu với chiến dịch Tây Nguyên từ 4 tháng 3 đến 3 tháng 4 năm 1975 mang mật
danh là Chiến Dịch 275. Cuộc tiến công xử dụng các đơn vị cấp sư đoàn bộ binh
Bắc Việt có chiến xa, đại bác nặng yểm trợ khởi cuộc nổ súng từ ngày ngày 10
Tháng 3 năm 1975 với mục tiêu là Ban Mê Thuộc, thành phố cực Nam của vùng cao
nguyên. Bộ chính trị, quân ủy trung ương tại Hà Nội đã điều động thực hiện cuộc
tấn công miền Nam với hai lợi điểm mà thật sự là hai ưu thế quyết định. Đấy là
sự bất ngờ về tình báo thêm được bảo đảm bằng cái ô chính trị tuyệt đối an toàn
tức là biết chắc Mỹ sẽ không bao giờ can thiệp lại vào Việt Nam. Cụ thể Hạm Đội
Mỹ quay mặt trước lần hải quân Trung cộng đánh chiếm Hoàng Sa của VNCH, tháng
1, năm 1974.
Trong cuộc họp mật của Bộ Chính Trị Trung Ương Đảng vào tháng 1 năm 1975
trước khi phát lệnh tấn công miền Nam theo kế hoạch Chiến Dịch 275, Ông Phạm
Văn Đồng, thủ tướng chính phủ Việt Nam Dân Chủ Cộng Hòa một bên ký kết Hiệp
Định Tái Lập Hòa Bình tại Việt Nam đã hân hoan tuyên bố: “Cho kẹo Mỹ cũng không
dám trở lại Việt Nam!” Ngày 10 Tháng 3 năm 1975, quân đoàn Tây Nguyên dưới
quyền tổng chỉ huy của Tổng tham mưu trưởng Văn Tiến Dũng đến từ Hà Nội đồng
loạt tấn công vào thị xã Ban Mê Thuộc với những sư đoàn 324, 324B, 320, 308,
316 và cả sư 341 tổng trừ bị của quân đội miền Bắc. Nhưng khi quân dân Ban Mê
Thuộc đang trên bờ vực sống-chết thì báo chí thế giới, báo cộng sản ở Hà Nội,
báo phản chiến ở Sàigòn đều đồng thanh phát biểu: “Cách mạng giải phóng miền
Nam là do mâu thuẫn giữa giai cấp cách mạng và giai cấp phản cách mạng; giữa
nhân dân tiến bộ và thành phần ngụy quân, ngụy quyền phản động; giữa lực lượng
vũ trang cách mạng và tập đoàn quân phiệt, phát xít công cụ của chủ nghĩa thực
dân mới kiểu Mỹ…”
Với sư đoàn F10 làm mũi nhọn được hai sư đoàn 320, 316 tăng cường, và sư
341 đoàn làm tổng trừ bị, lực lượng cộng sản có khoảng 25,000 người được pháo
binh, chiến xa nặng yểm trợ phối hợp. Đối lại tại thị xã Ban Mê Thuột phía VNCH
chỉ có khoảng 1,200 lính chiến đấu trong tổng số lính hậu cứ của Sư Đoàn 23 Bộ
Binh, lực lượng Địa phương quân Tiểu khu Đắc-lắc, và Liên đoàn 22 Biệt động
quân. Thế nên từ hai giờ sáng ngày 10 tháng Ba, giờ mở lệnh tấn công mà tướng
Dũng ước tính chiến trận Ban Mê Thuột sẽ chấm dứt sau một tuần nhưng chỉ đến 5
giờ 30 chiều cùng ngày, thị xã Ban Mê Thuột hầu như thuộc về phần kiểm soát của
quân Bắc Việt cho dù Biệt Động Quân và bộ binh vẫn tiếp tục chiến đấu. Dũng cứ
tưởng như là giấc mơ. Và Dũng đã đi từ giấc mơ sang một vùng ảo giác vào những
ngày sau khi được báo cáo: Quân đoàn II tháo chạy!
Cuộc di tản dọc Tỉnh Lộ 7 theo lộ trình Pleiku-Phú Bổn xuống Tuy Hòa quá
lớn với mối đau thương dài đặt trên hai trăm cây số đường núi với hai trăm ngàn
dân thường đi từ hai thành phố Kontum, Pleiku. Phải, chỉ là dân thường những
người nghèo không đủ tiền mua vé máy bay vào những tuần, tháng trước. Trời cao
nguyên buổi tàn xuân gây gây rét vào sáng, càng về trưa nắng cao và nóng khô
khan, đường bụi mù tung đỏ bám vào thành xe, nòng pháo, khí cụ, tóc và da mặt
người, vạn tròng mắt đỏ rực. Những tròng mắt mệt mỏi lo âu, tuyệt vọng. Phía
sau lưng, thị xã Pleiku bốc lửa ngọn, khói đen đặc ngật ngật bay lên cao hơn
đỉnh núi Hàm Rồng. Lửa lóng lánh ánh sáng kinh dị trong đôi ngươi những người
lính Liên Đoàn 7 Biệt động quân, thành phần hậu vệ đoàn di tản. Trời cao nguyên
với thị trấn Pleiku thường chĩu nặng sương mù nay oằn thân vật vã trong màu lửa
địa ngục. Lửa từ khối đống kim loại vũ khí, từ những kho quân nhu, quân cụ soi
loang loáng chập chờn những đường dốc hun hút lẩn khuất dưới tàng thông. Tất cả
đồng nhóm lên màu đỏ chói. Màu đỏ của máu lửa soi chập chờn đoàn người di tản
thê thiết. Đoàn di tản qua được một ngày bình an. Bình an sống sót qua đói,
khát, nhục nhằn và lo âu. Lính gục trên mũi súng, đàn bà, con trẻ nằm rũ lên
hành lý, thành xe, đất cát. Được sống, được ngủ là hạnh phúc quá lớn hở trời?
Còn biết kêu vào đâu? Với ai? Nhưng nỗi bình an này không kéo dài được, bởi
người cộng sản chỉ trong ngày 16 tháng Ba đã tìm ra đáp số cho câu hỏi: Quân
đoàn II đang tính gì sau chấn thương ngày 10 tháng Ba tại điểm bất ngờ Ban Mê
Thuột? Qua máy dò tìm làn sóng điện, Bộ Tư Lệnh Mặt trận B3 cộng sản khám phá
những phi cơ C47, C130 xuất phát từ phi trường Cù Hanh (Pleiku) đi Nha Trang
không có lượt bay về. Sự kiện nầy đã trút mối âu lo của Tướng Dũng về việc lực
lượng VNCH có thể điều quân tái chiếm Ban Mê Thuột. Thế nên Dũng ra lệnh cho Sư
Đoàn 320 băng rừng truy kích đoàn di tản và Sư Đoàn 968 từ Lào về trên đường
bôn tập về hướng Pleiku cũng được lệnh đâm ngang từ ngã ba Thanh An chuyển
hướng hành quân dài theo Tỉnh Lộ 7 xuống đồng bằng vùng duyên hải miền Trung.
Ngày 16 tháng Ba, Một Chúa Nhật điêu linh tan nát dọc con đường đỏ sẫm
đất núi và máu rây. Đoàn di tản bị chận ở phía đông Củng Sơn, bị cắt rời ở quận
Phú Túc, bị đuổi dập từ tây quận lỵ Phú Bổn. Xe tăng cán ngang lên GMC, xe GMC
hất xe đò chở thường dân xuống vực thẳm, cũng hất luôn những xe jeep nhỏ, cán
qua những chiếc xe Dodge 4 của địa phương quân chở những người già và trẻ em
tan tác. Chiếc vespa của một gia đình chạy lông lốc, xiêu vẹo trên sườn đồi,
đứa con, người vợ rơi tơi tả, người chồng, người cha rơi cuối cùng với chiếc xe
vỡ toang trên mỏm đá. Và súng nổ… 105, 155 pháo binh, hỏa tiễn TOW, XM72 của
phía cộng hòa; 130 ly, 122 ly, B40, B41 của phía cộng sản tất cả cùng hòa vào
nhau thành một luồng hỗn âm tan tác làm rung rinh sắc núi mờ nhòa ánh nắng. Mặt
trời bị chìm khuất trong khói xám. Có xác bà già ngồi dựa bờ đất bên lề đường,
người khô quắt không vết thương. Dấu hiệu sự chết chỉ được nhận biết nơi ổ mắt,
mũi, miệng… Đám kiến rừng bò lúc nhúc quay quắt đánh hơi. Ba đứa trẻ mắt lạc
thần ngồi nhìn đoạn đường hỗn loạn không cảm giác. Bé trai nhỏ nhất gục đầu
trên gối chị ngủ lay lắt.
Bao trùm tiếng la khóc khản đặc của người có âm thanh của đạn súng sơn
pháo nổ thật gần. Sư đoàn 320 Điện Biên bắn thẳng xuống đoàn di tản. Lính còn rõ
phản ứng trú ẩn, chống cự, người dân chỉ biết đưa mắt nhìn lên nơi đặt súng,
nơi có những tiếng nổ khô, ngắn trước khi bị bùng vỡ phá toang. Xác người tung
lên theo đất bay bay.Cái chết không đơn giản, mau chóng bởi súng đạn. Chết còn
bị nhận chìm từ từ trong lòng chiến xa khi chiếc xe tăng chúc đầu xuống đầu cầu
nổi bắc qua sông Ba. Chiếc cầu bắc vội mỏng manh không th nào chứa nỗi sức nặng
vạn con người, vạn chiếc xe.. Chiếc tăng M48 như khối đá ấn mạnh xuống lòng
chén nứt vỡ. Trong lòng xe có tiếng người hét nghẹn, trên pháo tháp có đám
người ngoi ngóp, người đạp lên đầu, lưng, vai người để được thở được sống thêm
vài giây ngắn. Chiếc xe chìm xuống im lặng, kéo theo, mang theo, đè xuống rất
nhiều thây xác. Xích sắt điên cuồng đào xoáy giòng sông máu sẫm làm quẫy lên,
tung tóe những tay chân người kẹp dính đâu dưới lưn xe.
Cuối cùng đoàn di tản cũng về đến Tuy Hòa vào ngày 25 tháng Ba do Tiểu
Đoàn 58 Biệt Động dẫn đầu. Hai-trăm ngàn dân theo lính chạy loạn từ Kontum,
Pleiku nay còn khoảng sáu chục ngàn người. 200,000 trừ đi 60,000 vậy đã chết
bao nhiêu? Không ai có thể tính chính xác được số dân thiệt mạng. Người chỉ
biết và đau với trường hợp của từng người thân, của mỗi gia đình, của chính
thịt da mình. Trên chiếc trực thăng từ phi trường Đông Tác (Tuy Hòa) về Nha
Trang, viên thiếu tá ngồi ôm đứa con nhỏ, gục đầu nín thinh khi đứa bé chợt nhớ
và hỏi nhỏ… Bà nội đâu hở ba? Trong đêm khuya nơi trại tạm cư ở đèo Rù Rì, nghe
những lời than vãn rời rạc lẫn tiếng khóc nấc nghẹn ghìm ghìm. Trên bãi biển
Nha Trang từng khối người ngồi chập choạng dưới trăng khuya. Trăng vàng chạch,
đỏ nhừ nhừ như máu bầm. Trong lòng người di tản từ cao nguyên đồng bằng trong
tháng Ba năm 1975 hầu như ai cũng đọng khối máu uất nghẹn đau thương. Khối máu
oan hờn của một dân tộc điêu linh chỉ khác người dân miền Trung chịu sớm nhất.
Đau nhất.
Mùa Chúa chịu nạn giải cứu thế gian diễn ra cùng lần bức tử miền Trung.
Khởi đầu buổi Đồng Tế tàn cuộc miền Nam. Bắt đầu từ Ngày 10 Tháng Ba ở Ban Mê
Thuột, dọc Tinh Lộ 7 B, con lộ máu dẫn về miền duyên hải. Hóa ra không cần đủ
hết tháng Ba, để tiếp theo tháng Tư thấm máu toàn miền Nam sụp vỡ. Thế nên,
người hôm nay phải viết lại, phải nói lên – Vì nếu không sẽ có tội – Tội với
những người đã chết mà lượng người chết trên Tỉnh Lộ 7 B là oan khiên đồng hiến
tế khởi đầu lần tận diệt Quê Hương. Của Quốc Gia Việt Nam Cộng Hòa.
(*): Cái
khoá-kéo trên bao đựng, quần áo,…( tiếng Anh: zipper; tiếng Pháp:fermeture) –
SĐ-NTC
Phan Nhật Nam
304Đen – llttm - SĐ
304Đen – llttm - SĐ
No comments:
Post a Comment