Thiên bi
hùng ca Quân Lực VNCH
Kính tặng anh linh cố Trung Tá Lê Văn Ngôn và chiến
hữu TĐ92 BĐQ/BP
Trung Tá Lê Văn Ngôn của
bachvietnhan (hình chụp khi còn mang cấp bậc Đại Úy).
Khi người dân trên toàn thế giới rung chuông, mở
rượu, tung giấy ngũ sắc để chào mừng Hòa bình Việt Nam, trên ngọn đồi cao năm
mươi thước giữa ranh giới hai tỉnh Tây Ninh, Bình Long, một cứ điểm quân sự
trông xuống hai con suối bắt đầu nổ súng như tia chớp giữa ngày quang.
Trận đánh Tống Lê Chân bắt đầu nặng độ. Lợi dụng
ngưng bắn, Cộng sản ra mặt tấn công ngay. Không ai trên thế giới biết đến, tất
cả muốn xóa đi bỏ qua tai nạn cục bộ của Việt Nam rắm rối. Hòa bình, thứ rượu
nhạt mà thế giới hăèn lâu không được uống. Tống Lê Chân, trận chiến cuối mùa và
cô đơn nhất của dòng thời gian binh lửa. Tính đến nay, căn cứ bị bao vây đúng
17 tháng hay 510 ngày. Không ai trong chúng ta nghĩ đến con số nhỏ bé ghê gớm
đau đớn này, chúng ta cũng là những kẻ có tội.
Stalingrad bị người Đức bao vây 76 ngày, người Mỹ
giữ cứ điểm Balaam 66 ngày, quân lực Anh và Khối Thịnh Vượng Chung tử thủ
Tobruk trong 241 ngày và ở Việt Nam “thiên đường” của chiến tranh, nơi binh đao
tung hoành không giới hạn, chúng ta cũng đã có những cứ điểm với tên tuổi để
đời như Điện Biên Phủ bị bao vây với số lượng 57 ngày. Gần gũi và còn được nhớ
hơn hết là những trận đại chiến khởi đi trong mùa hè 72, những trận đánh vượt
quá hẳn chiến sự thế giới tại các địa danh Kontum, An Lộc, Quảng Trị, những
Delta,Charlie ở Kontum cũng chỉ kéo dài trong 1 ngày, An Lộc 110 ngày và Quảng Trị
thực sự đến ngày 25-7-1972 đã được giải tỏa phần lớn…Thế nên, Tống Lê Chân với
510 ngày bị vây hãm phải được xem là trận đánh dai dẳng nhất lịch sử chiến
tranh cuả nhân loại. Căn cứ nhỏ bé đó từ ngày 10-5-1972 đã bị mờ khuất sau làn
khói lớn của An Lộc, Quảng Trị, Kontom và đến nay, sáu tháng sau ngày hòa bình
độc hại, chiếc tiền đồn lại càng có khuynh hướng bị xóa mờ – để che dấu và vô
hiệu hóa tội ác của những người cộng sản. Chúng ta phải nhỏ giọt nước mắt thật
nóng để cầu nguyện cho số người trong 510 ngày đã phấn đấu để chứng tỏ cùng thế
giới: tội ác đã đòng nghĩa với con người cộng sản. Tống Lê Chân, giọt nước mắt
tinh tuyền của sức đối kháng vô bờ của người Việt miền Nam.
Căn cứ được thiết lập trên ngọn đồi cao 50 thước, trông xuống hai con suối Takon và Neron, những con suối đầu tiên của sông Sài Gòn dày đặt khắp miền Tây Ninh, Bình Long, nằm trên đường ranh của hai tỉnh này, cách An Lộc 15 cây số về phía đông bắc và ở miền nam biên giới Việt Miên khoảng 13 cây số, điểm nhọn của chiếc Mỏ Vẹt, đại bản doanh của Cục R chĩa thẳng vào căn cứ. Tống Lê Chân trước kia là một trong những trại Dân Sự Chiến Đấu thuộc Lực Lượng Đặc Biệt mà người Mỹ đã thành lập từ năm 1967. Trong lãnh thổ quân khu 3 dọc theo biên giới Việt Miên từ Tây Ninh qua Phước Long có những trại Bến Sỏi, Thiện Ngôn, Katum, Tống Lê Chân, Lộc Ninh, Quan Lợi, Bù Gia Mập, chỉ riêng trại Bến Sỏi nằm trong nội địa Tây Ninh, các trại còn lại làm thành một hàng rào hệ thống tiền đồn ngăn chận, báo động sự xâm nhập và điều động của cộng sản từ bên kia biên giới nơi có những địa danh đã một lần vang động như Lưỡi Câu, Mỏ Vẹt, hệ thống trại còn lại là nơi xuất phát những cuộc hành quân tuần tiểu phát hiện và tiêu diệt các đơn vị địch trong vùng.
Căn cứ được thiết lập trên ngọn đồi cao 50 thước, trông xuống hai con suối Takon và Neron, những con suối đầu tiên của sông Sài Gòn dày đặt khắp miền Tây Ninh, Bình Long, nằm trên đường ranh của hai tỉnh này, cách An Lộc 15 cây số về phía đông bắc và ở miền nam biên giới Việt Miên khoảng 13 cây số, điểm nhọn của chiếc Mỏ Vẹt, đại bản doanh của Cục R chĩa thẳng vào căn cứ. Tống Lê Chân trước kia là một trong những trại Dân Sự Chiến Đấu thuộc Lực Lượng Đặc Biệt mà người Mỹ đã thành lập từ năm 1967. Trong lãnh thổ quân khu 3 dọc theo biên giới Việt Miên từ Tây Ninh qua Phước Long có những trại Bến Sỏi, Thiện Ngôn, Katum, Tống Lê Chân, Lộc Ninh, Quan Lợi, Bù Gia Mập, chỉ riêng trại Bến Sỏi nằm trong nội địa Tây Ninh, các trại còn lại làm thành một hàng rào hệ thống tiền đồn ngăn chận, báo động sự xâm nhập và điều động của cộng sản từ bên kia biên giới nơi có những địa danh đã một lần vang động như Lưỡi Câu, Mỏ Vẹt, hệ thống trại còn lại là nơi xuất phát những cuộc hành quân tuần tiểu phát hiện và tiêu diệt các đơn vị địch trong vùng.
Vùng hoạt động của trại cũng là chiến khu của giặc
– chiến khu C và cũng như hệ thống đường liên tỉnh mà chính quyền ông Diệm đã
thành lập từ những năm 1960, 1961, những trại Lực Lượng Đặc Biệt, sản phẩm đắc
ý của tổng thống Kennedy, người được yêu chuộng nhất của 37 đời tổng thống Mỹ.
Nhưng đến bât giờ, năm 1973 tại Việt Nam, lúc người Mỹ đã quay mũi phi cơ về
Klark Field, Guam, bỏ lãi xứ sở Đông Dương mịt mù tiếng đạn trong âm vọng hòa
bình, các trại kia chỉ còn lại là những chiến trường địa phương bị cô lập với
thế giới bên ngoài đành đoạn.
Không phải là chiến tranh nữa, đây chỉ còn là những
cơn sốt vỡ da cho “hòa bình” nguy hiểm. Tống Lê Chân, cơn sốt cuối cùng và dai
dẳng. Dưới chân đồi căn cứ về phía bắc còn có đường 246 nối Tây Ninh và Bình
Long xuyên qua lớp rừng xanh lá, đây là con lộ huyết mạch để mặt trận nối liền
hai vùng sinh tử, khu C và khu D. Tống Lê Chân cũng là yết hầu chận ngang đường
dây Bắc Nam, nơi bản doanh Cục R và vùng Dầu Tiếng, để từ đây xâm nhập xuống
Bình Dương, Gia Định. Với vị trí chiến thuật quan trọng như thế, Tống Lê Chân
không còn là mục tiêu quân sự thông thường; căn cứ nhỏ bé này có một tầm quan
trọng khẩn thiết – kiểm soát được bốn hướng tây đông, bắc nam của hệ thống giao
liên quan trọng trong lòng căn cứ địa đối phương. Từ ngày thành lập, Tống Lê
Chân chưa bao giờ có một ngày thanh bình, tên địa phương là Tonle Tchombe, vị
chỉ huy trưởng đầu tiên, thiếu tá Đặng Hưng Long gọi trại thành Tống Lê Chân,
binh sĩ nói Tống Lệ…Những người ngoài binh chủng Lực Lượng Đặt Biệt phần đông
gọi theo danh từ hàm xúc này, Tống Lê Chân tên tiền định cho số kiếp nghiệt
ngã. Năm 1970, trong chương trình cải tuyển binh chủng, binh sĩ trại Tống Lê
Chân phần đông là những dân sự chiến đấu thuộc sắc dân Stieng tình nguyện ở lại
cùng căn cứ để biến cải thành Tiểu đoàn 92 Biệt Động Quân Biên Phòng. Tháng
4-72, song song với các cuộc cường tập vào Lộc Ninh, An Lộc, Cộng quân đã có ý
định “Ủi láng” hết dãy căn cứ biên phòng trên để rộng đường điều quân cùng
chuyển vận quân nhu, quân cụ. Tình hình khẩn trương của thời gian ấy đã khiến
Bộ Chỉ Huy Biệt Động Quân Quân Khu III quyết định rút hết lực lượng của bốn căn
cứ Thiện Ngôn, Katum, Tống Lê Chân và Bù Gia Mập. Nhưng người chỉ huy của Tống
Lê Chân đã có câu trả lời sau khi nhận được lệnh:
-Xin ở lại chiến đấu bảo vệ căn cứ. Di tản tiếc quá. Biệt Động Quân mà
di tản yếu quá
-Tình hình có giữ nổi không?
-Tất cả binh sĩ đều xin ở lại bằng mọi giá để bảo vệ uy tín binh chủng.
-Tình hình có giữ nổi không?
-Tất cả binh sĩ đều xin ở lại bằng mọi giá để bảo vệ uy tín binh chủng.
Định mệnh đã điểm giờ phút đó, lực lượng nhỏ bé của
Tiểu đoàn 92 Biệt Động Quân Biên Phòng trở nên những anh hùng lặng lẻ của trận
đánh cuối cùng làm sáng tỏ lòng chiến đấu bền bỉ của người Việt cho hòa
bình…Hòa bình Việt Nam, giấc mơ tội nghiệp của cả một dân tộc được tưới thêm
bởi máu nóng của những người lính vô danh của Tiểu đoàn 92 trong một hốc của
núi rừng miền đông Nam Bộ. Thế giới giữ được cân bằng trên hòa bình vật vã này,
toàn thể nhân loại có biết thế không?
Giữ một vị thế trọng yếu trong hệ thống giao liên
giữa căn cứ địa của địch, bảo vệ được cánh sườn phía tây cho An Lộc, Tống Lê
Chân trên bản đồ hành quân của Ban Tham Mưu R đã được xác định là một mục tiêu
cần phải “dứt điểm”. 10-5-72, Cộng quân dồn lực lượng đánh trận biển người vào
căn cứ có chiến xa yểm trợ sau khi đặc công xâm nhập được vào vòng đai phòng
thủ. Nhưng căn cứ vẫn đứng vững như lời nguyền người chỉ huy của trại tên Lê
Văn Ngôn với số tuổi khiêm nhường, 25 tuổi đã giữ được lời thề…Ngôn thuộc khóa
21 Đà Lạt, ra trường năm 66, bây giờ tháng 9-72, Ngôn mang cấp bậc trung tá,
một thời gian kỷ lục, nhưng không ai tỵ hiềm…Không thể tỵ hiềm được vì tình
hình quân sử thế giới không có một đơn vị nào bị vây trong thời gian 510 ngày
vẫn còn đơn độc chiến đấu. Ngôn và Tiểu đoàn 92 của anh là một biệt lệ, một
hiện thực ý niệm cao cả về trách nhiệm và giá trị mà người lính muôn đời luôn
nghĩ đến. Những người lính khắp nơi của thế giới đã nhiều lần chứng tỏ tầm vóc
vĩ đại của mình trên đảo Saipan, trong buồng lái của những chiếc máy bay Rero,
trong những phi vụ trên vùng trời Âu châu được đan kín bởi một lưới lửa đạn
phòng không trong đệ nhị thế chiến…Ở Việt Nam, trận Mậu Thân 1968, Hạ Lào 1971
và suốt 510 ngày, cùng một lúc sức chiến đấu lại tăng trưởng theo chiều cao,
theo cường độ tấn công và pháo kích của quân giặc. Tống Lê Chân bắt chúng ta
suy nghĩ khi biết được Gilles, viên tướng Nhảy dù lừng danh của Quân đoàn Viễn
chinh Pháp đã nói cùng Cogny và Navarre: “Hãy móc tôi ra khỏi Điện Biên Phủ,
tôi vừa sống 6 tháng ở ổ chuột Na San rồi…Tôi quá sợ những cứ điểm bưng bít như
thế này!” Sáu tháng ở cứ điểm Na San trong vị thế một người chỉ huy cùng với
phương tiện vật chất thừa thãi cũng đủ làm cho ông tướng gốc người Corse phải
kinh khiếp, thế nhưng trên ngọn đồi 50 thước, dưới hầm sâu lạnh tanh, viên
trung tá trẻ nhất quân lực Lê Văn Ngôn đã sống đến ngày thứ 510 cùng với Tiểu
đoàn 92 Biệt Động Quân với số quân thiếu hụt và thực phẩm phải dè sẻn từng túi
cơm sấy. Đau đớn hơn cả, Ngôn chiến đấu trong hòa bình giả tạo và gian dối mà
đối phương cùng thế giới đang nhân danh mỗi giờ, mỗi phút. Những phút Tiểu đoàn
92 ẩn mình dưới giao thông hào đợi cơn pháo qua, giờ phút của 510 ngày thiếu
ánh sáng mặt trời. Vậy vấn đề được đặt ra cùng sự kiện như đã trình bày – chúng
ta phải làm gì cho số người nhỏ bé cao cả trên cao điểm năm mươi này? Ngăn
chặn, phát hiện địch, giữ căn cứ để làm bàn đạp, tung quân tuần tiểu, tấn công
và truy kích địch, những mục tiêu đầu tiên mà ý niệm hành quân đã đặt để cho
căn cứ không còn nữa. Chúng ta chỉ còn lại một biểu tượng bi tráng, chỉ có một
chiến trường phi lý để những người anh hùng âm thầm ngã xuống trong lặng lẽ,
làm sáng tỏ sự tàn ác, khiếp nhược của nền hòa bình độc hại. Chúng ta sẽ làm gì
nếu bỏ qua hay thụ động buông thả để duy trì tình trạng phi lý độc địa này.
Phiên họp đặt biệt cấp trưởng đoàn ngày 17-3-73 do
Việt Nam yêu cầu và Hoa Kỳ chủ vị, chính thức đặt Tống Lê Chân lên bàn hội
nghị. Trưởng đoàn Việt Nam Cộng Hòa, tướng Dư Quốc Đống đề nghị ba biện pháp
cấp bách:
1.- Cử ngay một tổ LHQS Bốn Bên trung ương đi Tống
Lê Chân để điều tra vi phạm ngay lập tức sau khi có thỏa thuận hội nghị.
2.- Nếu phe cộng sản không thỏa thuận đề nghị, Hoa Kỳ trên tư cách chủ vị gởi văn thư yêu cầu UBQT cử người đi điều tra.
3.- Yêu cầu phía Mặt Trận Giải Phóng ra lệnh ngay cho các đơn vị của mình chung quanh Tống Lê Chân phải ở nguyên vị trí, không được bắn lên phi cơ UBQT khi đến điều tra.
2.- Nếu phe cộng sản không thỏa thuận đề nghị, Hoa Kỳ trên tư cách chủ vị gởi văn thư yêu cầu UBQT cử người đi điều tra.
3.- Yêu cầu phía Mặt Trận Giải Phóng ra lệnh ngay cho các đơn vị của mình chung quanh Tống Lê Chân phải ở nguyên vị trí, không được bắn lên phi cơ UBQT khi đến điều tra.
Nhưng lọc lừa là tính chất cơ bản, phía Mặt Trận
Giải Phóng biết chắc phiên họp đặc biệt này sẽ thảo luận một vấn đề nghiêm
trọng mà họ chưa có chỉ thị để giải quyết: dù Trần Văn Trà mang lon trung tướng
đi chăng nữa, Trà cũng không bao giờ quyết định được một vấn đề gì, dù vấn đề
đó thuộc về nguyên tắc, thủ tục nếu chưa có chỉ thị trước, nên Trà đã vắng mặt
để cho viên đại tá Đặng Văn Thu đại diện họp thay. Trước ba đề nghị xác đáng
của một vấn đề cụ thể, Thu không ngập ngừng bối rối né qua tố cáo: Việt Nam
Cộng Hòa đã vi phạm ngưng bắn tại Đức Phổ, Sa Huỳnh (Quảng Ngãi), Đức Cơ
(Pleiku) và kết luận ung dung: chính Việt Nam Cộng Hòa vi phạm tại các địa điểm
trên! Không một lời nói, không một từ ngữ nhắc đến sự kiện, địa danh Tống Lê
Chân. Trưởng phái đoàn Bắc Việt gật gù chiếc đầu tán đồng lập lại lời phát biểu
của Mặt Trận Giải Phóng với thứ tự chữ nghĩa nói khác đi một chút. Bài học đã
được học từ nhà, các cậu học trò cộng sản lập lại không sai một chữ, bất chấp
nội dung rõ rệt của ba đề nghị…Ý kiến – một sự kiện không có bao giờ có trong
đầu của cá nhân người cộng sản khi chưa “hội ý”!!
Thấy hai phái đoàn cộng sản không đá động gì đêùn
ba đề nghị vừa trình bày, phái đoàn Việt Nam Cộng Hòa lập lại đêø nghị lần thứ
hai: Nếu Ban Liên Hợp Quân Sự bốn bên chưa thống nhất ý kiến thì yêu cầu Hoa Kỳ
gởi văn thư cho Ủy Ban Quốc Tế để Ủy Ban này đi điều tra. Mặt Trận Giải Phóng
cùng Bắc Việt lại hát lên một nội dung: “Không đồng ý việc gởi văn thư cho Ủy
Ban Quốc Tế đến để điều tra.” Phiên họp ngưng ở kết luận này. “Tính nhất trí”
của Hiệp định – tính chất không bao giờ có ở bàn hội nghị!!
Cho chắc ăn hơn nữa, phía cộng sản mớm lời cho hai
phái đoàn Ba Lan, Hung Gia Lợi khi tiếp nhận văn thư của Hoa Kỳ đi điều tra
Tống Lê Chân: “UBQT không đồng ý đi điều tra ở một nơi khi nơi đó chưa được an
ninh…”Muốn chắc ăn hơn, hai phái đoàn quốc tế cộng sản này lại đưa thêm điều
kiện: Sẽ chịu đi nếu phái đoàn Mặt Trận Giải Phóng cử sĩ quan liên lạc tháp
tùng cùng trực thăng. Lẽ dĩ nhiên điều kiện không bao giờ được thực hiện vì Mặt
Trận Giải Phóng chắc chắn không đồng ý cử sĩ quan liên lạc tháp tùng.
Một tuần lễ trôi qua, kể từ phiên họp 17-3-73 tất
cả nỗ lực về Tống Lê Chân đều bị chắn lối bởi hai ngón đòn: “Tình hình Tống Lê
Chân chưa rõ rệt, phái đoàn Mặt Trận chờ chỉ thị của thượng cấp và đơn vị Mặt
Trận Giải Phóng không cử sĩ quan liên lạc đi cùng nên Ủy Hội Quốc Tế không thể
đến điều tra…” Mặt Trận Giải Phóng, Bắc Việt, Ba Lan, Hung Gia Lợi nương vào
nhau nhồi quả bóng vô liêm sỉ, né tránh hẳn vấn đề.
Ngày 23-3-73, chỉ còn 4 ngày nữa là hết thời hạn 60
ngày làm việc của Ban Liên Hiệp Quân Sự Bốn Bên, Hoa Kỳ thúc dục phái đoàn Gia
Nã Đại (chủ tịch Ủy Ban Quốc Tế) trực tiếp thu xếp với Mặt Trận Giải Phóng để
sớm điều tra sự kiện Tống Lê Chân. Mặt Trận Giải Phóng trốn không nỗi, đưa đại
tá Võ Đông Giang, phó trưởng đoàn ra gặp đại tá Lomis (Gia Nã Đại) thỏa thuận
cử sĩ quan liên lạc của Mặt Trận theo Ủy Ban Quốc Tế đến Tống Lê Chân vào ngày
24-3-73…Nhưng rốt cuộc cũng là trò đánh tráo, theo thỏa thuận của Giang, sĩ
quan Mặt Trận sẽ từ Tân Sơn Nhất đi Tống Lê Chân tiếp xúc trước với lực lượng
cộng sản ở đây xong trở về Biên Hòa (Biên Hòa là khu V Liên Hợp Quân Sự – tức
là cùng của Việt Nam Cộng Hòa) để đón Ủy Ban Quốc Tế vào Tống Lê Chân…Tên sĩ
quan liên lạc của Mặt Trận nhận chỉ thị trước, nên từ Tống Lê Chân y trở về Tân
Sơn Nhất, làm cho Ủy Ban Quốc Tế đợi ở Biên Hòa suốt ngày 24-3-73…Cuộc điều tra
Tống Lê Chân của Ủy Ban Quốc Tế không bao giờ có thể thực hiện được. Không bao
giờ.
Về phía Liên Hợp Quân Sự, sau một tuần lễ cố gắng
liên tục kể từ phiên họp 17-3-73, Việt Nam Cộng Hòa buộc Mặt Trận Giải Phóng
phải cùng sĩ quan liên lạc đến Tống Lê Chân để thực hiện tản thương. Nhưng ngày
23-3-73, thay vì xuống Tống Lê Chân như đã dự liệu, tên sĩ quan liên lạc Mặt
Trận xuống “Sóc Con Trăn” cách Tống Lê Chân 10 cây số về phía tây, viên sĩ quan
này lấy cớ phải liên lạc với “địa phương” y trước, sau một hồi tìm kiếm trong
vùng, y trở lại trực thăng lấy cớ vì bom Mỹ và Việt Nam Cộng Hòa đã đánh đứt
đường giây (!!) y không tìm ra ai…Chiếc trực thăng trở về Sài Gòn, không một
thương binh được di chuyển…Phái đoàn Việt Nam Cộng Hòa vẫn duy trì yêu cầu Mặt
Trận Giải Phóng thảo luận để Việt Nam Côïng Hòa tản thương ở Tống Lê Chân; Mặt
Trận Giải Phóng hết cớ từ chối, ngày 24-3-73, hai mươi thương binh đầu tiên và
cuối cùng được di tản. Mặt Trận Giải Phóng “hòa hợp, hòa giải dân tộc” với giá
máu này một lần độc nhất, Tống Lê Chân đóng cửa vĩnh viễn với nỗi bi hùng của
nó … Cấp trưởng phái đoàn, cấp trưởng tiểu ban liên tiếp họp để dọn sạch vấn đề
Tống Lê Chân. Nhưng sự thật là một việc, và cách nhìn của người cộng sản lại là
một việc khác, nên sự kiện quân đội cộng sản bao vây, cường tập tấn công vào vị
trí của ta biến thành một cuộc hành quân của “quân đội Sài Gòn” lên chiếm khu
vực Tống Lê Chân, một nơi nằm sâu trong vùng giải phóng của chính phủ Cách Mạng
Lâm Thời!! Kèm theo luận cứ, lực lượng Mặt Trận Giải Phóng pháo vào trại là rất
tự kềm chế vì phải cảnh cáo đơn vị trong đồn muốn “nống nấn” ra ngoài khu vực
Mặt Trận Giải Phóng (một đơn vị chỉ hơn hai trăm người có thể nào tấn công vào
vòng vây của một sư đoàn!!). Về việc gọi loa đầu hàng, Mặt Trận Giải Phóng giải
thích: Đó là giảng “đạo lý, hiệp định” cho binh sĩ trong đồn biết “đạo lý về
hòa hợp, hòa giải dân tộc!!”. Ý nghĩa đích thực của ngôn từ đã biến mất trên
lưỡi của người cộng sản. Những điều vô lý thô bỉ đã được dựng đứng, đài phát
thanh Việt cộng ào ào tố cáo. Trần Văn Trà, Lê Quang Hòa gởi kháng thư tố giác,
các thành viên Hung Gia Lơiï, Ba Lan nghiêm chỉnh nghiên cứu kháng thư. Và biết
đâu trên thế giới có một số đông người tin vào kháng thư gian dối đó. Không
hiểu Đức Giáo Hoàng khi đọc bản tin của tòa báo Tòa Thánh đề cập đến bản kháng
thư đó ngài có biết đến những con mắt nổ lửa dưới hầm sâu Tống Lê Chân đang
mong ngày mau đến. Đau đớn hơn, khi tại Sài Gòn, nơi chỉ cách Tống Lê Chân trăm
cây số đường chim bay, có những người đã không biết hoặc không muốn biết những
người lính Việt Nam đang ở chiếc đồn bị bao vây vào ngày thứ 510. Và nhiều kẻ
lại nhìn vấn đề ngược lại – như đám Ngọc Lan, Chân Tín, như thứ chính khách đối
lập Hồng Sơn Đông, Hồ Ngọc Nhuận, Hồ Hữu Tường, Trương Gia Kỳ Sanh…(những nghị
sĩ, dân biểu được Mặt Trận Giải Phóng nhắc nhở nhiều lần ở bàn hội nghị khi
muốn tố cáo chính quyền Việt Nam Cộng Hòa). Những người này là gì trong khi
đồng lõa với tội ác đẫm máu này? Tính đến ngày của phiên họp đầu tiên đề cập
đến Tống Lê Chân, hai mươi ngày sau khi hòa bình 28-1-73, căn cứ có thêm bốn
chết và hai mươi hai bị thương, những người chết này chết cho ai? Phải chăng để
bảo vệ miền Nam, trong đó có những người vừa kể đang nhân danh hòa bình…
Quả tình chúng ta đang ở trong một “trạng thái hòa
bình” sau hai mươi sáu năm nghe tiếng súng nổ và lửa cháy. Chúng ta đã nghe
quen tiếng nổ đại bác hỏa tiễn, chúng ta cũng quen với độ cao của ngọn lửa Mậu
Thân, hơi nóng của An Lộc, Quảng Trị nên hình như khi hưởng được sự yên ổn đau
đớn của ngày hôm nay, chúng ta đã vội vã xóa tan vết tích chiến tranh, muốn
quên đi những hình ảnh tàn khốc của tháng kia, năm trước và trong hạnh phúc tội
nghiệp này, giữa lòng cơn lốc túng đói, chúng ta cũng đã không đủ khả năng để
nhớ đến hình ảnh một căn cứ lẻ loi cố gắng khỏi bị hủy diệt để thể hiện ý muốn
sống trong tự do và hòa bình, nỗi mơ ước của toàn dân tộc…Mơ ước đó có ta dự
phần. Vậy, chúng ta phải làm gì được cho Tống Lê Chân.
Tôi viết lên tiếng kêu bi hùng về Tống Lê Chân vào
tháng 6-73, thời gian quân đội cộng sản đang chuẩn bị dứt điểm vào Tống Lê Chân
trong dịp mùa mưa sắp tới của năm 1973. Suốt năm 1973, chiếc đồn nhỏ bé này đã
đứng vững được trước hàng chục cuộc tấn công và bị pháo kích hàng chục ngàn quả
đạn, viên chỉ huy căn cứ, trung tá Lê Văn Ngôn, hình như định mệnh đã gắng chặt
tên anh cùng chiếc đồn nhỏ bé đó, lời nói quyết chí của ngày tử thủ đầu tiên đã
được giữ trọn như tên anh đã định trước – NGÔN – Một lòng son sắt giữ mãi một
lời nói…Trong nguy nan của mỗi giờ sát cùng cái chết, người anh hùng lặng lẻ
với số tuổi quá nhỏ so với chiến trường kia quả là một hiên thực hình ảnh linh
diệu kết tinh bởi sức chịu đựng vô bờ của dân tộc. Ngòi bút viết ra cũng hỗ
thẹn trước nỗi can trường này…Những phiên họp của tháng 3, tháng 4-74 tại Ban
Lien Hợp Quân Sự Hai Bên trung ương, phía Việt Nam Cộng Hòa lại lớn tiếng báo
động: Công trường 9 nhất định rút ưu khuyết điểm của năm qua, tập dượt trên sa
bàn cùng trung đoàn 27 quyết ủi láng trại. Trung đoàn 27 sẽ được yểm trợ trực
tiếp bởi một trung đoàn pháo, một trung đoàn phòng không và lữ đoàn chiến xa,
không kể thành phần trừ bị và tăng viện…Một năm trời thử lửa, một hai tháng
thực tập trên sa bàn và trên địa thế tương tự…quân cộng sản dùng địa đạo chiến,
công kiên chiến khởi từ 5-4-74 đến 1:00 giờ ngày 11-4-74 đoạt được đồn… NGÔN
làm gì với quân số 259 người với 50 người bị thương từ trước, hai chục người bị
thương ở đợt tấn công sau cùng?!! Tiểu đoàn 92 đã chiến đấu hơn tất cả mọi đơn
vị bộ chiến của lịch sử chiến tranh, con người NGÔN hơn hẳn những người anh
hùng chiến trận của nhân loại: Alamo, Saipan, Wake, hàng trăm ngàn chiến binh
của thế giới đã dựng lên tấm bia can trường về bổn phận cao cả của lính. NGÔN
và Tiểu đoàn 92 Biệt Động dựng lên tấm bia lớn nhất, rực rỡ nhất. Cao quý hơn tất
cả, NGÔN và 259 Biệt Động Quân của Tống Lê Chân là những người chiến sĩ chiến
đấu cho hòa bình. Hòa bình của quê hương Việt Nam. Chúng ta trong thành phố
bình yên có nghĩ gì khi hay tin Tống Lê Chân bị đoạt mất. Tiểu đoàn 92 mở đường
máu rời căn cứ…Chỉ còn giọt nước mắt, phải, chỉ còn một giọt nước mắt ngập bi
hùng…
PHAN NHẬT NAM
304Đen – Llttm - DSC
No comments:
Post a Comment