THẦY GIÁO VỠ LÒNG CỦA TÔI
Cho đến giờ tôi cũng chẳng biết thầy tên gì, chỉ
nghe trong làng gọi là ông giáo Ba. Ở quê, người ta thường tránh gọi nhau bằng
tên thật, chỉ gọi theo thứ hay tên của đứa con đầu.
Sau lễ cúng khai tâm mà tôi được ăn nguyên một cái
đầu gà cho sáng óc ra, tôi được cha đặt ngồi trên vai, cõng tới trường. Lúc ấy
tôi năm tuổi. Khi ngang qua bụi tre trước nhà, mẹ tôi dặn theo: Coi chừng đụng
đầu thằng nhỏ.
Mẹ không dẫn tôi đi, vì mẹ đang cho em bé bú và sợ
rằng để đàn bà dẫn đi thì cái học của tôi không được tấn tới lắm. Vậy nên không
có cảnh “Mẹ tôi âu yếm nắm lấy tay tôi dẫn đi trên con đường làng dài và hẹp”.
Cũng không có cảnh “Lá rơi từng chiếc một trên đôi vai những pho tượng trắng”
trong vườn Luxembourg.
Nhưng dẫu sao tôi cũng được ngồi trên vai của cha
mình để từ trên cao nhìn xuống thấy cái gì cũng lạ. Thấy mình bỗng dưng cao hơn
cha một cái đầu. Thấy những đứa bé khác bị người lớn kéo đi lệch bệch, theo sau
còn có người cầm roi!
Khi gặp thầy, cha tôi để tôi xuống đất, một tay vẫn
đặt trên đầu tôi, một tay vỗ vai thầy, bảo: Dạy giùm thằng nhỏ. Thầy nhìn
xuống, ngửa cằm tôi ra, nói, trông nó sáng đấy. Rồi thầy bảo anh trưởng tràng,
hơn tôi đến mười tuổi, đưa tôi vào ngồi đầu một cái bàn dài như nắp hòm.
Sau này tôi biết, thầy từng là bạn học của cha tôi.
Nhà thầy ở cuối làng, ngày hai buổi thầy đi dạy bằng ngựa. Con ngựa của thầy
màu trắng, đẹp và mập hơn những con ngựa kéo xe. Nó được tắm rửa và chải chuốt
cẩn thận, nên khi thầy ngồi lên với quần tây và áo sơ mi trắng, trông thầy thật
phong nhã. Khi đọc Kiều, nhờ vậy mà tôi hiểu được cảnh “Lỏng buông tay khấu
bước lần dặm băng” của chàng Kim. Và sau lưng thầy không chỉ “Một vài thằng con
con” mà cả lớp, chạy theo mỗi khi tan trường.
Mặc dù thầy vẫn thường ngăn cấm nhưng cái thú được
chạy sau đuôi ngựa không đứa nào chịu bỏ. Cũng như thích chạy theo sau những
chiếc xe ô tô, hiếm hoi lắm mới ngang qua làng, mặc dù chỉ để hít bụi và khói
xăng.
Tôi không nhớ rõ thầy đã dạy cho tôi những gì ở năm
học đầu tiên. Dường như thầy chỉ phóng vào vở mỗi ngày vài chữ, dạy đọc ê a,
rồi tập kẽ hàng trên lá chuối cho quen tay trước khi cầm bút có ngòi lá tre
chấm vào hũ mực tím. Đứa nào cũng khổ sở vì cái hũ mực ấy, vì nhét bằng cùi bắp
nên mực đổ ra nhòe nhoẹt cả trên áo, trên vở.
Chẳng đứa nào mà không ít nhất một lần bị thầy cầm
thước khẽ tay hay nhéo tai đau điếng. Những lỗi nặng hơn như phá phách, đánh
lộn và nhất là trốn học, bị thầy bắt nằm dài trên bàn, phơi mông ra cho thầy
quất năm roi. Cũng có khi thầy bắt quì trên xơ mít vì không thuộc bài!
Đó là những hình phạt dành cho những anh lớp tư,
những anh mà chỉ vài năm sau đã lớn phồng được cha mẹ dẫn đi hỏi vợ. Đám cưới
nào thầy cũng được mời ngồi trịnh trọng ở phản giữa và được cả hai họ nhà trai
nhà gái cung kính vái chào.
Cái oai của thầy khiến ông cha bà mẹ nào cũng bảo:
“Thầy cứ đánh giùm tôi, thằng này nó hư lắm!”, mỗi khi thầy có việc đến nhà.
Còn học trò thì khỏi nói, chỉ mới nghe tiếng lục lạc ngựa leng keng của thầy là
đã đứng nép bên đường, run rẩy cúi đầu chào. Ngay cả khi lấy vợ sinh con mà
thấy thầy từ xa cũng phải đứng vòng tay lại như lúc còn đi học.
Nhà thầy đủ ăn đủ mặc, dạy lấy tiếng chứ không phải
để lãnh lương. Cho nên, Tết là dịp để học trò đền ơn thầy. Cũng chẳng có chi
nhiều, chỉ gói trà, bịch thuốc, sang thì một tấm lịch. Đi Tết cho thầy, gọi là
đi mừng tuổi, đứa nào cũng sợ run, cứ thò thụt ngoài cửa ngõ, phải đợi thầy gọi
đôi ba lượt mới dám vào.
Thầy ân cần đem bánh mứt ra mời nhưng chẳng đứa nào
dám động đến. Thầy khen đứa này có áo mới, đứa khác có quần đẹp, dặn năm mới
phải ngoan ngoãn vâng lời ông bà cha mẹ. Rồi khi nghe thầy nói: “Cho thầy gửi
lời cảm ơn, thôi các trò đi chơi Tết!”, là chỉ mới ra khỏi ngõ đã ù té chạy.
Chả bù với ngày Nhà Giáo bây giờ. Thầy cô chẳng
những đã được lãnh lương, được thưởng mà còn được phụ huynh tặng quà cáp nhiều
hơn mức bình thường. Thời bao cấp thì bột ngọt, gạo, đường, sữa. Thời hiện đại
hóa thì son phấn vải lụa đắt tiền, điện thoại di động hay iPhone cả chục triệu.
Vậy nên cuối năm lớp nào cũng đạt học sinh giỏi, gần như trăm phần trăm. Học
trò đến nhà thầy không còn khép nép run sợ nữa mà cười nói tự nhiên, có đứa bảo
nóng quá sao không mở quạt máy, thầy!
Thầy thì chỉ đậu Pờ-ri-me thôi, nhưng em trai thầy
năm đó đã là ông Tú một. Khi toàn quốc kháng chiến, trường collège Qui Nhơn bị
phá sập, thầy cất trường tại nhà cho ông em dạy học. Ông ấy được dượng tôi, dù
đã có vợ sinh con vẫn theo học, gọi là thầy giáo Cảnh. Ông thầy này còn oai hơn
thầy tôi vì dạy đến cả những người đậu Pờ-ri-me để thi lấy bằng Thành Chung.
Ông luôn đeo kính trắng, ngồi chấm bài hay đọc sách bên bàn, trông rất trí
thức.
Nhưng chỉ một năm thì trường đóng cửa vì học sinh,
nếu không đi bộ đội cũng phải tham gia công tác diệt giặc dốt, tức là đi dạy
bình dân học vụ. Thầy cũng nghỉ dạy luôn vì bọn trẻ đều được vào học ở trường
cơ bản, từ lớp một cho đến lớp năm. Rồi nghe đâu em thầy bị bệnh lao, thầy phải
đưa em ra vùng bị tạm chiếm. Anh em chia tay nhau ở một bến sông nào đó ngoài
Hội An, rồi tuyệt tin luôn, chẳng biết còn sống hay đã chết.
Năm tôi học lớp Đồng ấu của thầy, cha tôi bị bệnh
thương hàn, mất. Mẹ tôi để em ở nhà, bồng tôi theo sau quan tài, khóc tấm tức.
Thầy có đến tiễn đưa, bảo anh ấy mất sớm quá, chị ráng nuôi cháu học.
Từ đó tôi không còn gặp thầy nữa. Tôi cũng không
biết thầy làm gì sau khi không dạy học. Chỉ biết, sau khi anh em ông Diệm bị
bắn chết thì thầy cũng bị bắn trên bến sông sau nhà. Không phải quân đảo chánh
mà là Việt cộng. Bản án nổi dật dờ trên sông ghi là tay sai của Mỹ. Sau 1975,
người bắn thầy làm trưởng ban quân quản thôn. Chính ông ấy kể ra cái công lớn
đó trong lý lịch của mình. Té ra hai người ở sát cạnh nhà nhau, là anh em nhà
chú nhà bác, cùng một ông nội và bà nội.
Điều ân hận của tôi là không biết mộ thầy ở đâu để
thắp cho thầy một nén nhang. Thôi thì con viết những dòng này, gửi lên cái mạng
ảo, biết đâu trong cõi hư vô Thầy đọc được. Nay con tám mươi tuổi, vẫn nhớ đến
Thầy
Khuất Đẩu (Văn Việt )
Người chuyển bài – GSN
No comments:
Post a Comment