Trăm Đắng
Nghìn Cay
Xa xa tiếng đại bác vẫn không ngừng dội về.
Trời đã về đêm, tướng Lee cho lệnh dừng quân, đặt
bản doanh bộ chỉ huy trong một cánh rừng, gần toà thị xã Appomattox, nằm vào
phía Nam tiểu bang Virginia. Đây là một nơi hẻo lánh, có độ chừng 20 căn phố,
chỉ vài cửa hàng nhỏ, một lữ quán. Cuộc nội chiến Hoa Kỳ xảy ra trong hai nhiệm
kỳ của Tổng thống Lincoln từ 1861 đến 1865, bắt đầu vào ngày 12 tháng
4-1861.Khi cuộc chiến Nam Bắc bùng nổ, nước Mỹ chia đôi. 11 tiểu bang miền Nam
ly khai với 9 triệu dân và thêm 4 triệu dân nô lệ da đen. Chính phủ liên bang Hoa
Kỳ còn lại 21 tiểu bang miền Bắc với 20 triệu dân.
Quân đội chính phủ liên bang Hoa Kỳ, do tướng
Ulysses Grant chỉ huy, gọi là quân đội miền Bắc hay quân đội Potomac, lấy tên
của dòng sông diễm lệ chạy qua thủ đô. Các tiểu bang miền Nam sống về canh nông,
cương quyết đòi giữ lại chế độ nô lệ để khai thác cho nông nghiệp. Tổng thống
miền Nam là ông Davis. Thủ đô là Richmon và quân đội do tướng Rober Lee chỉ huy
được gọi là quân đội Virginia, hay quân đội miền Nam.
Sáu ngày trước, lực lượng của tướng Lee đã di
chuyển không ngừng nghỉ về dãy núi Blue Ridge, nơi ông từng tuyên bố là quân
đội của mình có thể kiên cường chiến đấu ít nhất là 20 năm. Thế nhưng, đêm nay,
khi tướng Lee và Bộ Tham Mưu của ông quyết định đóng quân tại đây thì tất cả
quan quân đều mệt mỏi, sa sút tinh thần. Tất cả hy vọng của tướng Lee lúc này
chỉ còn đặt vào John Gordon, một vị tướng trẻ gan dạ. Hy vọng rằng, sáng sớm
ngày mai, lực lượng của tướng Gordon sẽ tiến quân phá vỡ tuyến bao vây của quân
đội miền Bắc.
Khởi từ 5 giờ sáng, từng đợt tấn công của tướng
Gordon đã đánh bật tuyến phòng thủ đầu của quân miền Bắc, chiếm nhiều cỗ súng
đại bác, và ào ạt tiến lên đồi. Nhưng sau đó, khi qua phía bên kia đồi, lực
lượng này đã đụng phải hai đơn vị bộ binh dàn quân kéo dài hơn 2 dặm. Lại thêm,
từ phía sau là hai đơn vị bộ binh khác đang tiến lên. Quân lính của tướng
Gordon bị vây ép vào giữa, tiến không được, lui cũng không xong, không còn lối
thoát nào cả.
Được tin thất trận của tướng Gordon, tướng Lee
triệu tập Ban Tham Mưu để có quyết sau cùng. Trong Ban Tham Mưu có người đề
nghị phân tán để giữ lực lượng và chuyển sang đánh du kích, nhưng tướng Lee
chọn quyết định đầu hàng. Vị danh tướng của Hoa Kỳ trải qua bao nhiêu chiến
thắng nhưng sau cùng đành chấp nhận thua cuộc và xin hẹn gặp nhau.
Nhận được thư chấp nhận đầu hàng của tướng Lee,
tướng Grant rất vui mừng, chuẩn bị đón tiếp tướng Lee. Ông ra lệnh nghiêm cấm
các sĩ quan và binh sĩ trực thuộc không được tỏ ra bất cứ hành động nào vô lễ
với vị tướng tư lệnh bại trận.
Trưa ngày lịch sử 9 tháng 4-1865, tướng Lee và một
đại tá tùy tùng cưỡi ngựa vượt qua phòng tuyến đến nơi hẹn ước. Nửa giờ sau,
tướng Grant đến. Ông tự tay thảo điều kiện về đầu hàng trao cho tướng Lee, như
sau:
“ Vũ khí, đại bác và các tài sản công phải được
liệt kê, sắp xếp và giao nộp cho một viên sĩ quan do tôi chỉ định. Những vũ khí
này sẽ không gồm có vũ khí cá nhân của các sĩ quan, cũng như ngựa và tư trang
của họ. Sau khi hoàn tất, mọi sĩ quan và binh sĩ sẽ được phép trở về nguyên
quán, và sẽ không bị quấy nhiễu bởi các cơ quan cầm quyền, nếu họ tôn trọng
lệnh đầu hàng và tuân theo luật lệ địa phương nơi họ cư ngụ.”
Gương mặt lo lắng của tướng Lee giờ tươi hẳn. Qua
cam kết của tướng Grant, ông an tâm khi biết là sĩ quan và binh sĩ dưới quyền
của ông sẽ không bị giam giữ như tù binh chiến tranh. Họ cũng sẽ không bị bắt
giữ và truy tố về tội phản loạn. Ông đồng ý với các điều kiện đề ra, nhưng
trình bày: hiện nay quân đội của ông không còn lương thực và xin cho binh sĩ
của ông được giữ lại lừa ngựa, vì lính của ông đem ngựa từ các nông trại của họ
đi chiến đấu; không như quân đội miền Bắc, ngựa do chính phủ cung cấp.
Nghe vậy, tướng Grant cho biết là không sửa chữa
chính thức trên văn bản nhưng tuyên hứa là sẽ cho lệnh để lính miền Nam được
phép đem lừa ngựa của mình về nhà mà xây dựng lại nông trại, tạo sinh kế. Ông
cũng không ngần ngại hứa hẹn cung cấp 25,000 khẩu phần cho quân đội miền Nam.
Thi hành văn kiện đầu hàng đã ký kết, ba ngày sau,
binh lính của tướng Lee đi trên con đường hướng về phía Đông rừng Appomattox.
Hai bên đường có quân đội của tướng Grant nghiêm chỉnh dàn chào nghênh đón, do
tướng Chamberlain, thay mặt tướng Grant, chỉ huy nghi thức tiếp nhận quân đội
đầu hàng.
Tướng Gordon, một trong những cận tướng can trường
của Đại tướng Lee, thừa lịnh tướng Lee, hướng dẫn toàn quân đến đầu hàng.
Không thông báo trước và ngoài nghi thức sắp đặt,
tướng Chamberlain ra lệnh cho quân đội của ông thi hành nghi thức chào kính.
Kèn lệnh vang lên, đoàn quân nghiêm chỉnh thi hành, tiếng báng súng đồng loạt
vang lên.
Phía đối diện, tướng Gordon của quân đội đầu hàng,
thúc nhẹ con tuấn mã khụy hai chân trước xuống, người và ngựa cùng cúi đầu,
gươm tuốt trần chúc mũi trân trọng chào đáp lễ. Cùng lúc, đoàn quân miền Bắc
chuyển qua thế bồng súng chào. Họ chào những “anh hùng bại trận”. Họ bày tỏ sự
kính trọng của những người Hoa Kỳ đối với những người Hoa Kỳ.
Buổi lễ và các thủ tục đầu hàng kéo dài 7 tiếng
đồng hồ. Gần 28,000 người, trao nộp trên 100,000 tấn vũ khí, đạn dược,…
Người chiến thắng cùng người chiến bại đều tôn kính
lẫn nhau. Người đích thực chiến thắng năm 1865 chính là dân tộc Hoa Kỳ!
Chiếc GMC, loại quân đội dùng chở quân lính, dừng
lại. Tấm bạt che kín người bên trong xe, mở lên từ phía sau. Ánh mặt trời buổi
chiều bất chợt hắt vào những tù nhân bên trong xe, làm bàn tay đưa lên che vội
bên trên khuôn mặt hốc hác nhễ nhại mồ hôi, đôi mắt hấp háy tránh né tia sáng
chói chang và đột ngột. Hai bộ đội trẻ, rất trẻ, đứng canh chừng bên lối xuống
xe, tay ghìm cây AK với lưỡi lê dài nhọn đe dọa.
– Cho xuống xe!
Cán bộ “quản giáo” rời buồng lái, tay đeo vòng cái
túi vải qua bên trái, cho khỏi che vướng cây súng ngắn K54 đeo lủng lẳng bên
hong, ra lệnh. Những người tù lếch thếch nhích dần ra phía sau và mỏi mệt lần
lượt xuống xe. Chân rảo bước về phía sau xe, có vẻ chưa vừa lòng, hắn cáu kỉnh
hét:
– Khẩn trương lên!
– A!
Bất chợt có tiếng người kêu lên. Hai cái lon sữa
Guigoz cột đeo trên vai anh, rớt xuống, lăn lóc nghe loảng xoảng. Mớ nước uống
còn sót trong lon đổ tuôn ra, nhuộm ướt lớp sỏi đất trên sân trại thành màu đỏ
sẫm. Tiếng kêu thảng thốt, khe khẻ, nhưng đủ làm những người quanh anh cùng cảm
nhận. Các bạn tù còn trên sân khựng lại, nhìn xem. Bàn tay trái của anh cầm
chặt nơi cổ tay mặt. Mắt anh kinh ngạc nhìn ngón tay của mình. Lúc xuống xe,
chiếc nhẫn trên ngón tay, không may, máng vào đầu cây đinh ốc bị tuôn và nhô ra
bên ngoài thanh gỗ dựa lưng của băng ghế. Sức nặng của thân thể và tốc độ nhảy
xuống làm vòng kim loại cắt và tuột trọn da thịt trên ngón tay của anh quá
nhanh, trong chớp nhoáng. Cảm giác thật sự chưa kịp đến. Cái đau lúc này ít hơn
nỗi kinh hoàng khi mắt mình nhìn thấy các lóng xương ngón đeo nhẫn phơi bày ra
trần trụi.
Dùng lưỡi lê trên đầu cây AK ghim chọc vào giữa
vòng kim loại đang nằm trong nhúm thịt và máu. Đưa chiếc nhẫn máng trên thân
lưỡi lê lên xem:
– Báo cáo cán bộ: chiếc nhẫn này của “ngụy”!
Thực vậy, không cần phải đọc cho được hàng chữ
“Trường Võ Bị Quốc Gia – Việt Nam”, quanh viên ngọc trên mặt nhẫn; hình ảnh con
rồng uốn quanh cây kiếm và bản đồ Việt Nam, quá đủ để quân cộng sản nhận ra:
đây là dấu hiệu liên hệ với Quân Lực Việt Nam Cộng Hòa. Bây giờ, máu tuôn trào.
Cảm giác đau nơi ngón tay lúc này thật sự là đau buốt. Nhìn gương mặt im lặng
chịu đựng, của nạn nhân, viên cán bộ cay cú:
– Cực kỳ ngoan cố! … Cách ly nó!
Quay sang những người tù còn đứng gần đó, dợm chân,
có ý muốn bước đến giúp đồng đội của mình, hắn gằn giọng:
– Cấm mọi quan hệ! Cấm cứu thương!… Không băng bó
chi cả!
Anh bị giam riêng. Rừng về đêm giá lạnh, ngón tay
không thuốc men hay băng bó càng thêm đau đớn. Cái đau đớn tận cùng không chỉ ở
vết thương!
Đến trưa hôm sau, người ta đem anh ra xe và chở đi…
Sau khi quân cộng sản chiếm trọn miền Nam tự do.
Những người lính miền Nam Việt Nam, những công chức, nhà văn, nhà báo và tất cả
những thường dân bị nhà cầm quyền cộng sản kết tội có liên hệ với chế độ Tự do
của miền Nam, đều bị tống giam vào các trại tù, dưới tên gọi là “trại cải tạo”.
Ngay cả thương binh cũng không thoát khỏi chính sách trả thù hèn hạ, hiểm độc.
Họ bị tống đuổi ra khỏi bệnh viện, bất kể tình trạng thương tích trên người,
với vải băng bê bết máu kéo lê trên mặt đất dơ bẩn.
Năm 1975, Trung tá Vũ văn Sâm, phục vụ tại Trường
Sĩ quan Bộ binh Long Thành. Ông bị cộng sản giam giữ tại Long Giao, rồi chuyển
đến trại tù Tân Hiệp (Biên Hòa). Ở đây, nhạc sĩ Thục Vũ có sáng tác nhạc phẩm
“Suối Máu” với 8 câu thơ cảm đề của chính mình:
“Em ở Sài Gòn anh ở đây
Đồi pha cát trắng kẽm gai đầy
Ngẫn ngơ dăm chuyến tàu xuôi ngược
Để nhớ nhung về che khuất mây
Tôi vẫn thường đêm thương nhớ con
Thương em tình nghĩa vẫn vuông tròn
Thương mình ray rứt từng đêm trắng
Thương bạn anh trong chuyện mất còn”
Cũng vì lời nhạc thương nhớ bày tỏ tình cảm của
mình, người viết nhạc bị quân cộng sản đày đọa lên trại tù Sơn La, ở chốn rừng
thiêng nước độc. Tại đây, Thục Vũ sáng tác thêm nhạc phẩm “Anh Ở Đây”; chỉ một
thời gian ngắn bị giam giữ và gục chết cũng tại nơi đây, vào ngày 15/11/1976.
Tấm mộ bia đơn sơ với đôi hàng nguệch ngoạc “Vũ Văn Sâm, 1932”, được bạn bè ghi
lại, cắm làm dấu xác người tù bạc phận đã phải nằm lại tại trại tù Sơn La.
Người tù Sơn La Nguyễn Quang Tuyến, cũng là nhà văn
Văn Quang.
Nhà văn Văn Quang được biết đến qua rất nhiều tác
phẩm văn chương. Bốn tác phẩm được làm thành phim. Chân Trời Tím là phim có rất
nhiều người biết đến, cùng các ca khúc như Nửa Hồn Thương Đau, Chân Trời Tím.
Sau năm 1975 ông bị bắt giam hơn 12 năm tù.
Trong bài “Mừng Cho Người Chết Trong Nhà Tù “Cải
Tạo”, nhà văn Văn Quang có viết về cái chết của bạn tù Vũ Văn Sâm, tức nhạc sĩ
Thục Vũ:
“Anh Tô Kiều Ngân không ở cùng trại tù với tôi, anh
đi “lao động” bị ngã gãy tay, phải đưa về trạm xá gần trại giam tôi ở từ năm
1976 khi được đưa ra Sơn La “học tập”. Dịp đó, nhạc sĩ Thục Vũ, tên thật là Vũ
Văn Sâm, ở cùng đội với tôi, anh bị đau gan đến vàng mắt. Khi bệnh tình quá
nặng, Thục Vũ được đưa sang bệnh xá. Nói là bệnh xá, chứ ở đây cũng chẳng có
thuốc men gì chữa chạy cho bệnh nhân. Thậm chí mỗi lần lên khám bệnh xong, anh
y tá bôi cho tí dầu cù là vào tay rồi bảo về uống đi hoặc nằm ngửa cổ ra để
“cán bộ y tế” nhỏ cho vài giọt nước củ tỏi vào mũi. Thế là xong. Bệnh nhân nặng
chỉ còn việc nằm chờ chết. Thục Vũ cũng ở trong trường hợp ấy.
Một buổi sáng sớm, …
Tôi nhận ra ông Phan Lạc Phúc, khoác chiếc áo trây
di cũng tả tơi “đồng bộ” với cái quần rách. Nước mắt ông Phúc chảy rất chậm
trên mặt, ông nghẹn ngào cất tiếng:
– Thằng Sâm chết ở bệnh xá đêm qua rồi.
Tôi lặng người, bởi mới hôm qua, tôi lẻn sang bệnh
xá thăm, Thục Vũ đưa cho tôi hai gói thuốc lào nhỏ, anh nói: “Tôi mệt không hút
thuốc được nữa”. Ngồi nói chuyện vài phút, anh Tô Kiều Ngân ở trạm xá này cũng
đến ngồi chơi. Tôi thấy Thục Vũ vẫn còn khỏe, vậy mà đêm qua đã ra đi.
Sau đó, anh Tô Kiều Ngân nói với tôi lời an ủi đúng
nhất, ngắn nhất và cũng bi thảm nhất: “Mừng cho nó, từ nay nó không còn biết
đói rét và không ai hành hạ được nó nữa”.
Đám tang Thục Vũ, hình ảnh bi thảm nhất trong cuộc
đời chúng tôi.
Vào buổi chiều năm 1977, khi đồi núi Sơn La bắt đầu
chạng vạng, bất chợt nhìn sang lối ra từ bệnh xá một khung cảnh hết sức đau
lòng. Trên con đường đá cũ nhỏ, vòng theo sườn núi cao vút chập chùng, cách
vườn rau là cái ao, đám tang bắt đầu di chuyển chậm chạp. Hai cai tù vác súng
AK đi đầu, theo sau là một anh tù cầm vài nén nhang, đến 4 anh tù khiêng cỗ
quan tài mộc, sau cùng lại là 2 cai tù vác súng AK. Suốt con đường dài âm u đó,
chỉ có đám người ấy lặng lẽ chuyển động như những bóng ma.
Ở vùng đồi núi bóng tối đổ xuống rất nhanh, mang
theo sương mù mỏng dăng ngang triền dốc dựng đứng như những bức tường đá của
nhà giam thiên nhiên, chẳng cách nào thoát ra được. Chúng tôi biết chắc đó là
đám ma Vũ Văn Sâm tức nhạc sĩ Thục Vũ. Tất cả hơn ba chục tù nhân trong đội
đứng ngẩn ra, dán mắt nhìn theo cái đám ma thê thảm ấy. Ông Phan Lạc Phúc, đến
bên tôi, không nói lời nào, quay mặt đi giấu nước mắt. Nhìn sang phía bên trạm
xá, Tô Kiều Ngân và mấy anh bác sĩ trẻ cũng là tù, đứng sau hàng rào kẽm gai cũng
ngơ ngẩn. Ngân vẫy tay cho tôi và anh Phan Lạc Phúc chẳng biết để làm gì. Là
một sự cảm thông tận cùng hay nói lời từ biệt.
Mấy tay coi tù cũng đứng lặng, nhìn chúng tôi và họ
hiểu rằng lúc đó dù bắt chúng tôi thu dụng cụ về trại cũng chẳng ai chịu về, dù
có bị bắn tại chỗ. Tất cả đứng như tượng gỗ dõi theo đám tang đi trong buổi
hoàng hôn lạnh ngắt, dần khuất vào cuối con đường cong phía chân núi. Sương mù
bắt đầu tỏa xuống…
Hình ảnh cái đám ma Thục Vũ còn in đậm trong tâm
khảm chúng tôi cho đến bây giờ. Tôi chắc anh Tô Kiều Ngân, đến cuối đời cũng
chưa quên được hình ảnh này. Nó trở thành những kỷ niệm rất riêng nhưng cũng
lại rất chung của những ai đã từng sống dở chết dở qua những cái được gọi là
“trại cải tạo”.
“Ôi đời ta, ngờ đâu trăm đắng nghìn cay
Khúc sắn bát ngô vơi đầy
Sầu nuôi thân xác hao gầy
Bao ngày qua đợi chờ tin vui chẳng thấy
Hận thù yêu thương còn đấy
Vui đành như cánh chim bay” *
Cho đến nay, cứ đến ngày 30 tháng 4, đảng cộng sản
lại thản nhiên tưng bừng ăn mừng ngày chiếm miền Nam tự do và gọi là Đại thắng
mùa Xuân.
Hơn 40 năm qua, đã có hàng trăm hồi ký, truyện
ngắn, truyện dài viết về trại tù “cải tạo” của cộng sản. Biết bao câu chuyện
thương tâm đã được ghi lại trong Thân Phận Người Lính Gãy Súng, Xử Tử Tù Cải
Tạo, Nữ tù nhân “cải tạo” ở Z30D, Những Người Tù Cuối Cùng, Núi Lạnh, Cuối Tầng
Địa Ngục, Trại Tập Trung, Trại Kiên Giam,… và hãy còn biết bao câu chuyện không
thể nào được kể lại trọn vẹn, hay chưa bao giờ được biết đến; vì người tù đã
vùi thân xác đâu đó trong rừng hoang khi vượt trốn trại, hay trong các bãi chôn
tù, như nghĩa trang Đồi Bà Then trên Cổng Trời. Hoàn cảnh khắc nghiệt tại trại
giam Cổng Trời khiến tù nhân chết do bệnh tật, thiếu ăn, biệt giam hay lạnh giá
hầu như xảy ra hàng ngày. Đồi Bà Then là cái tên mà người nào ở Cổng Trời đều
biết. Nó là một mảnh đất nhỏ được dành làm nghĩa trang mà cán bộ trại giam luôn
lấy làm biểu tượng để cảnh cáo những người tù cứng đầu nhất. Biết rằng: không
ai thoát khỏi cái chết trong cõi đời này, nhưng người tù “cải tạo” phải chứng
kiến và chấp nhận cái chết đến với mình. Chỉ riêng trại giam có tên là Trại
Cổng Trời đã có quá nhiều hồi ký ghi nhắc đến.
Thảm cảnh đày đọa và chết chóc trong trại tù cộng
sản đã được biết bao nhân chứng viết kể lại. Nhưng ngôn từ không thể nào diển
tả trọn vẹn được nỗi đau đớn của họ cùng thân quyến. Nỗi đau của những vết
thương nhục hình này không bao giờ lành được theo thời gian, sẽ còn đó mãi mãi
cùng xương cốt của những người tù vẫn còn nằm lại trong các mồ hoang.
Anh ở đây!
Anh vẫn còn ở đây!
Chiều Suối Máu, chiều Sơn La,….
Chiều Việt Nam mưa vẫn rơi, mưa rơi nhòa nước mắt!
BÙI ĐỨC TÍNH
BK Tính 323
304Đen – Llttm - dsc
No comments:
Post a Comment