Mai
Việc gặp lại Ðằng ở đơn vị, quả thật là điều tôi
không hề mong muốn, nhất là phải ở cùng trung đội. Khi Ðằng bỏ trường, bỏ lớp,
bỏ cả giòng sông chảy ngang qua thành phố, và những chuyến đò ngang đầy ắp thật
nhiều dự định, những dự định tưởng như có thể hồng tươi hơn chòm hoa phượng là
đà mặt sông xanh thắm. Tôi vẫn không nghĩ là Ðằng đã đi lính. Việc gì phải thế,
khi chỉ còn vài tháng nữa là đến kỳ thi năm cuối. Cửa ải mà nếu vượt qua được,
phần số mỗi người sẽ có được nhiều chọn lựa hơn ở giảng đường đại học, và nếu
có phải bước vào cuộc chiến vẫn sẽ có rất nhiều đổi khác. Dù sao thì chiến
tranh cũng đã tới bên ngưỡng cửa trường học, khi mỗi sáng điểm danh, lại thỉnh
thoảng vắng đi một người, nhất là vào ngày thứ hai đầu tuần, đám bạn bè ngoại
ô, sau ngày thứ bảy, chủ nhật về quê, là gần như đi hẳn. Tụi nó nhảy núi, chúng
tôi thật không hiểu vì sao lại có những chọn lựa trái nghịch với ý muốn khi họ
rất sợ phải về quê cuối tuần. Riêng bọn chúng tôi ở thành phố, lại thong dong
tuần tự bước vào nghiệp lính không mảy may lo nghĩ, hay chờ đợi lên phiên. Sớm
hay muộn, một hai năm, chẳng có nghĩa lý gì với cuộc chiến đã dài hơn tuổi đời
chưa kịp lớn. Vả lại, có quá nhiều lý do để thôi thúc đám nai vàng ngơ ngác
chui đầu vào lò thui một cách tự nguyện, khi ngoài cổng trường xôn xao cờ quạt
biểu ngữ của quá nhiều đám biểu tình, bãi khóa... đến nỗi câu khẩu hiệu thông
dụng nhất mỗi khi chúng tôi được bỏ ngang lớp học, nhập vào bất cứ đoàn biểu
tình nào là... ‘’Hoan hô, đả đảo, muôn năm... muôn năm.’’ Chẳng cần phải biết
hoan hô hay đả đảo ai muôn năm. Thầy giáo tóc dài dạy triết lại thỉnh thoảng
bơm chút hơi hướng... buồn nôn lạc lõng, váng vất ảo ảnh về một cuộc cách mạng
mà hình như thầy cũng chỉ mới tiêm nhiễm đâu đó, hơn là chính sự chọn lựa của
thầy khi đã quá say mê dẫn đám học trò bơi trong những bài giảng xa vời, hỗn
loạn về chủ nghĩa hiện sinh và triết học Karl Mark, để có đứa bỗng nhiên trở
nên ngớ ngẩn, gật gù như một triết gia, thuyết giảng ồn ào về quyền tự quyết
của dân tộc. Tự quyết gì? khi vẫn lạy ông Stalin còn hơn ông cố tổ. Tôi cắc cớ
hỏi đám yêu nước thời thượng, để được chúng nó ném cho những tia nhìn diễu cợt.
Có ai biết, chiến tuyến tội nghiệp đã manh nha từ ghế nhà trường?
Hôm Ðằng bỏ học, tôi chỉ biết, lúc Mai cho tôi đọc
những phân trần của hắn về một sự vắng mặt cần thiết,’’ trời đất bao la nhưng
không còn một chỗ cho Ðằng’’ khi Mai khước từ những ý định xa hơn của hắn về
tình bạn giữa ba đứa chúng tôi. Cái thằng lậm nặng Kim Dung, tưởng mình cũng
mang dòng máu Khiết Ðan của Kiều Phong bỗng mất A Tử, than một tiếng vang động
tới trời xanh. Oan cho tôi một điều là hắn tưởng Mai đã chọn tôi thay vì hắn,
trong khi tôi ù ù cạc cạc, ngớ ngẩn chuyện trai gái phiền toái. Tôi vẫn còn
thích những buổi tắm sông, mệt nhoài bơi theo chuyến đò ngang tan học, khoanh
hai tay nổi lềnh bềnh trên những con sóng lăn tăn, nghe rong rêu ve vuốt tấm
lưng trần để mường tượng những tà ào trắng trên chuyến đò chiều nhập nhòa mây
nước bất chợt bay vút giữa thinh không... để làm gì nhỉ? Tôi cũng chẳng hiểu.
Nhưng một bóng dáng nào để phải lơ đễnh nhìn bâng quơ ngoài cửa lớp thì vẫn là
điều úy kỵ đối với một kẻ vừa nhỏ con và xấu trai như tôi. Cuối ‘’bảng tường
trình ‘’ hắn còn phang một câu chúc Mai và tôi hạnh phúc? Oái oăm hơn, tự nhiên
tôi lại thấy đôi mắt Mai long lanh kỳ lạ khi dí vào mắt tôi đoạn văn của kẻ sắp
bước lên đoạn đầu đài. Tôi vẫn đinh ninh hắn nhập vào một khóa sĩ quan nào đó
thuộc hải lục không quân, để sau một hai năm trở về với áo quần đại lễ, mắt
nhìn thẳng về phía trước, dáng kiêu bạt bất cần đời cũng đủ để... Mai ân hận,
và đủ để tôi kính cẩn chào ngài cho sướng chí phục thù, dù tôi chẳng có xơ múi
gì trong những oan khiên của hắn.
Một năm rồi hai năm, tôi không có cơ hội để báo cho
hắn biết, khi Mai hồn nhiên bước lên chuyến xe lộng lẫy của một buổi chiều hồng
tươi pháo cưới. Ðến lúc đó, tôi mới chợt ngẩn ngơ, chợt biết cũng như hắn, tôi
đã vuột mất khu vườn thần tiên thanh thoát... mà có khi tưởng như đã của mình!
Ðể rồi khu giảng đường nhìn ra bờ sông bỗng trở nên trống vắng, tan hoang hơn theo
những biến động dồn dập tới lui qua từng nhịp cầu xám dần nắng bạc, những bước
chân cuồng nộ của đám biểu tình dần đưa thành phố vào cõi chết, bàn thờ cũng
xuống đường cùng với xe pháo ngược xuôi, tôi chẳng thể nào hiểu nổi cảnh bát
nháo, dữ tợn của những thằng bạn học với băng xanh băng đỏ trên tay áo, hăm hở
chạy theo chiếc vespa bạc phếch màu sơn của ông thầy triết hippy thuở nào, phân
phát những tờ báo sặc mùi giặc cỏ, cổ võ cho một kiểu Trung Kỳ Quốc ly khai tự
trị, mà có lẽ Tổng thống hay Thủ tướng gì đó cũng chỉ là Thầy, hay một vị giáo
sư họ Hồ, họ Tôn nào đó của viện đại học đã không còn là chốn cửa Khổng sân
Trình. Những vị giáo sư đáng kính mà danh tiếng và sự thành đạt của giòng họ
không hề vì, từ, hoặc cho đám dân đen nghèo khó, khi họ vẫn luôn tách biệt
trong tháp ngà quý tộc, ban phát sự ngưỡng phục cho mọi người từ những ngựa xe,
tước vị. Những ngựa xe, tước vị có từ cơm áo ngoại bang. Nay miếng đỉnh chung
hình như lại được ngoại bang mới bày bàn bánh vẽ, nên các thầy đã mạnh miệng
đốc xúi đám học trò, giương cờ quyết tử, học sinh quyết tử, sinh viên quyết tử,
đòi xé rách thêm một miếng trên quê hương vốn đã đau với lằn dao Bến Hải.
Tôi may mắn được cơn lốc hỗn loạn đó cùng với ngọn
bão hiu hắt của Mai thổi bay ra khỏi giảng đường để đi vào quân đội. May mắn,
vì nếu chậm chân một năm sau, khi đám cuồng khấu trở về cùng với ‘’Thầy‘’ giết
ngon lành sáu ngàn mạng người, những người đã từng là bạn học, bạn cùng xóm,
bạn đá banh, đánh bi, đánh đáo, là học trò của Thầy, nhưng không cùng một lý
tưởng bán nước như Thầy và lũ chạy hiệu. Thưa Thầy! Ðến bây giờ, Thầy vẫn là
một kẻ mang trọng tội, là một vết nhơ của lịch sử, dù Thầy có dư khả năng biện
bác, chạy tội của một người ngồi trên lý của kẻ thắng. Và cho dù Thầy có chết.
Thành phố nhỏ có năm nào quên khói hương cho mấy ngày Tết mới, đã mãi mãi là
bản án trĩu nặng trên chút lương tâm nào đó còn sót lại, không phải chỉ của
Thầy, mà ngôi từ đường thầy hưởng hương khói, cũng phải biết ăn năn. Thầy biết
xứ mình mà, họ đay nghiến không phải chỉ bằng đôi mắt ngó.
Vậy mà Ðằng đi lính, thay tên đổi họ để thoát khỏi
tài nguyên sĩ quan, làm một ngườI lính lặng lẽ tự mình khoét sâu vết thương, tự
mình cay đắng với quá nhiều điều hoang tưởng. Như Ðằng vẫn thường hoang tưởng
trên những bài thơ viết đều trên các báo văn học tôi vẫn được đọc mỗi tháng.
Cái bút hiệu của hắn, mang tên ba đứa chúng tôi Vương Ðằng Mai, dù bây giờ đã
không còn chữ Vương, tên tôi đứng trước, nhưng dấu đâu được giọng thơ u uất,
kiêu bạt của một kẻ đã tự đăng cáo phó, ngồi đọc bản tin mình chết trận, bật
giọng cườI khan thâm thẩm, đếm trên đầu ngón tay để biết mặt bằng hữu nào còn
chia lờI ai điếu.
‘’
Ta đứng đầu rừng, ngu như loài cỏ dại
Hứng
hết mặt trời
Ðốt
cháy cõi nhân gian
Ðể
biết đâu em sẽ qua như là gió
Vướng
hạt tro buồn
Cay
mắt tiểu thư...
Thơ của hắn, mang mãi một mặt trời cô quạnh, một
mặt trời hừng hực khát khao, cực đoan và tuyệt vọng. Vết thương đầu đời không
ngờ mổi ngày một mênh mông không bến...
Anh
uống say sưa
Những
giọt nắng thừa rơi qua kẽ lá
Gọi
gió về
Cho
nắng rụng nhiều hơn
Từ
những cành cao chưa một lần với tới
Nắng
rụng vô vàn, anh uống đến ngất say...
Cũng may hồi đó, khi đọc mẩu tin buồn trên báo, tôi
tưởng Ðằng chết thật, và có lẽ bài viết ngắn tôi dành cho hắn, trên tờ Nghệ
Thuật của ông Viên Linh- Mai Thảo (Vương Ðằng Mai - Những người viết mới. Tuần
báo Nghệ Thuật. 1966, không nhớ rõ số) đã kéo hắn chịu ngồi xuống với tôi, để
nói những điều tưởng chừng như đã chết. Như một Trần văn Ðằng đã biến mất trong
tất cả hồ sơ lý lịch, để bây giờ hắn gặp tôi với một tên rất lạ Hạ sĩ Trần Hiếu
Ðịch.
Không ai trong đơn vị biết những giòng thơ đầy ấp
nắng si tình là của Ðằng, hạ sĩ Trần Hiếu Ðịch sống lang bạt như một hảo hán
bất cần đời, mà Cao Bá Quát có sống lại cũng chưa chắc đủ sức nằm bên hũ hèm để
xuống bút những vần thơ đánh động tận cõi xa xôi của những niềm riêng bi phẫn.
Niềm riêng từ cõi hy vọng thâm sâu lẫn niềm tuyệt vọng. Hắn không thể quên Mai,
và tình yêu đó vẫn như một mặt trời rực lửa hắn ngày ngày cắn trong răng xông
vào cõi chết.
Cho đến thời điểm đó, cả tôi và hắn vẫn chưa biết
gì về cái chết của vợ chồng Mai. Mãi bốn năm sau, một ngày đầu Xuân, tôi hối hả
băng đồng từ vị trí đóng quân về thành phố cũ, ba lô trĩu buồn những bài thơ và
bóng mặt trời của Ðằng, cố gắng tìm đến khu vườn xưa vẫn vàng hoa sứ, và cụm
Mai tứ thời ráng đỏ sắc chiều trôi, thì Mai đã không còn nữa. Hai vợ chồng đả
cùng chung số phận với sáu ngàn người chết tức tưởi đầu Tết Mậu Thân. Chuyện
tưởng như Màu Tím Hoa Sim của Hữu Loan. Tôi tìm Mai cho hắn hay tìm Mai cho
tôi? Những giòng thơ của hắn có mang hộ tôi lời tự tình câm nín? Hắn còn hơn
tôi là đã nói và đã mất. Còn tôi? Giọt nước vô tình vẫn rơi giữa trời không.
Tôi cố thuyết phục Ðằng về một khóa sĩ quan để hắn
tạm quên cơn binh lửa đang cuốn hút đơn vị vào những cuộc hành quân tất bật.
- Nếu muốn, bây giờ tôi đã là Tiểu đoàn trưởng của
Thiếu úy!
Hắn vẫn gọi tôi với đầy đủ cấp bậc, dù đã nhiều lần
tôi phải nài nỉ:
- Thôi Ðằng à! Cần gì phải thế! Sao mầy không gọi
tao như hồi đó?
- Khi nào giải ngũ, mình sẽ tính lại vụ đó.
Cánh bay chao nghiêng để những triền núi tím sẫm
mây chiều bỗng bập bềnh ngoài ô cửa. Tôi dựa lưng vào balô của Ðằng, hắn vẫn hý
hoáy viết suốt chuyến không vận từ Nam ra Bắc.
-Này ông bạn! Xứ mình mùa nầy hiếm thấy mặt trời lắm
đó!
-Mình sẽ vẽ nên mặt trời. Nhất là...
Hắn bỏ lửng câu nói rồi nhìn đăm chiêu vào khoảng
tối mập mờ tận đuôi tàu. Cuộc hành quân đang mở về quê cũ, như tôi và Ðằng vẫn
hằng mong đợi. Là đơn vị tổng trừ bị của Quân đội, chúng tôi đã vác balô ngược
xuôi khắp miền chinh chiến, nhưng trở về để được nhìn giòng sông đã êm đềm trôi
hết thời thơ ấu của cả hai đứa, để có thể ngập ngừng lướt xe nhanh qua khu vườn
nhỏ ngập tràn những bướm hoa niên thiếu, và nhất là để bước vào căn nhà rêu
phong ẩn khuất sau hàng bông cẩn, nhìn lại tấm ảnh bán thân Mai vẫn treo bên
cửa sổ... dù ‘’đôi mắt người Sơn Tây đã u
ẩn theo chồng‘’. Chúng tôi đã mất hơn bốn năm để có ngày về mong manh đó.
Khi nhận phóng đồ hành quân từ đại đội, tôi đã reo mừng như một đứa bé, tìm
ngay Ðằng để nói với hắn thật nhiều dự định. Nhất là phải trầm mình một buổi
xuống giòng nước óng ánh mặt trời trên từng con sóng nhỏ, chịu phép thánh tẩy
dành cho hai đứa giang hồ lưu xứ, cuốn trôi những phong trần lang bạt và cả
những u uất một thời đã chín mùi theo lửa đạn. Ðể sẽ cất giọng cười sảng khoái,
khà một chung ‘’tửu phùng tri kỷ‘’
Giao máy cho ông thượng sĩ già lên ngồi phía trước
cạnh tài xế, tôi đứng trên thành xe cùng với hắn. Ðoàn quân xa đang vượt qua
chiếc cầu xe lửa phía tây thành phố, những thanh sắt đen một màu đổ nghiêng
xuống giòng sông đang ôm lấy nền trời trong vắt, như lung linh nấc thang bước
xuống thủy cung rong rêu xanh thẫm. Phía xa kia, phía những nhịp cầu trắng bạc
băng qua thành phố. Ôi mặt trời lên kìa,
Ðịch, mỗi khi quýnh quáng tôi vẫn kêu tên lính của hắn, mặt trời sớm mai
tươi tắn một vòng cung trên bức tranh lụa, nhịp cầu cong nghiêng như nẻo quay
về của thật nhiều ký ức, hình như có ba
chiếc xe đạp đi học sớm... tôi thì khi nào cũng rướn mình trên pédal vượt dốc
cầu lên phía trước, để nuốt trọn khoảng không gian mở ra bát ngát dưới lòng
cầu, nghe mùi rong man man tưởng như theo gió đến từ đại dương xa khuất. Hắn
chậm rãi nhường Mai lên dốc, không biết tà áo, mái tóc, vòng bánh xe, hay tiếng
reo tí tách từ những nan hoa xe đạp của Mai là nguồn thơ cho hắn...
Mai
em nhung lụa qua cầu,
Ta
loay hoay giửa rối mù cuộc vui
Khi
về gió vắng áo ai
Sông
bâng khuâng bóng mờ phai hương người.
Tôi ngâm khẽ bài thơ buồn hắn viết những năm còn đi
học, để bất chợt thấy đôi mắt đỏ hoe của Ðằng đang nhìn đăm đăm về phía mặt
trời, khi chiếc quân xa gầm gừ khuất dần dưới những tàn cây ngược đường số một,
ngược về mặt trận phía bắc đang đang ngút lửa chiến chinh.
Mục tiêu cuộc đột kích là một chốt mạnh, vừa là đài
quan sát của địch, nằm sâu trong vùng thượng sơn, trên một đỉnh núi , cách căn
cứ hỏa lực gần nhất của quân ta hơn mười cây số về phía tây bắc. Tin tình báo
và giải đoán không ảnh còn cho biết, rất có thể, đầu não của các đơn vị pháo
Bắc quân đang trú đóng quanh khu vực nầy, chuẩn bị cho một kế hoạch phủ toàn bộ
khu vực mặt trận, cũng như phần nửa phía bắc thành phố, trong một cuộc bắn phá
dữ dội của pháo binh, tạo kinh hoàng và hỗn loạn để dọn đường tấn chiếm bằng
các đơn vị bộ binh và chiến xa đang chờ sẵn bên kia giới tuyến. Khi họp ở đại
đội, tôi đã biết tất cả những khó khăn sẽ gặp phải, vì yếu tố bất ngờ, cũng là
sở trường chiến thuật của đơn vị là đổ bộ chớp nhoáng bằng trực thăng vận khó
mà thực hiện được khi hướng vào duy nhất, nằm dọc theo lưu
vực của một con suối chạy dài giửa thung lũng đã bị khóa chặt bằng một hỏa lực
phòng không hùng hậu, mà ngay cả máy bay trinh sát võ trang OV 10 của Hải quân
Mỹ cũng bỏ chạy té khói huống chi mấy chiếc HU nặng nề quân đổ bộ. Thế nhưng,
đó lại là giải pháp khả thi duy nhất khi vị trí đột kích nằm quá xa căn cứ yểm
trợ, vì thế, phải chấp nhận hướng bay xa hơn, vượt qua đỉnh núi cao vòng sau
lưng địch rồi bất ngờ chụp xuống từ mặt dốc dựng đứng phía tây, đây cũng là
hướng rút dự phòng nếu đường không vận bị trở ngại. Ðáng lẽ, vấn đề sẽ được
giải quyết dễ dàng nếu các đại đội trinh sát của sư đoàn kịp tới vùng hành
quân, vì đó là ‘’nghề của chàng‘’. Nhưng họ đang bị cầm chân tại các mặt trận
Komtum và An Lộc. Chúng tôi là tiểu đoàn đầu tiên, cũng vừa rời mặt trận An
lộc, tăng phái ra chiến trường cực bắc, và theo như ý niệm của bộ tư lênh vùng,
cuộc đột kích nầy nhằm đạt hiệu qủa tâm lý hơn là giá trị chiến thuật, khi cần
chứng tỏ với địch, cũng như với đồng bào về sự hữu hiệu của các đơn vị tổng trừ
bị vừa được tăng phái đến. Ðể không còn ám ảnh về những ngày Xuân tang tóc năm
nào.
Chúng tôi có hai ngày để chuẩn bị, nhận dạng các vị
trí, hỏa điểm và cách bố trí của mục tiêu trên sa bàn được lập theo không ảnh,
với tỷ lệ một trăm phần trăm khu vực trung tâm, gồm có tám căn hầm chữ A và hai
vị trí phòng không rõ mồn một trên hình chụp. Hai con gà cồ nầy, chúng tôi phải
mang về làm quà tết, không biết quà tết cho ai, nhưng chắc chắn phải mua bằng
gía máu. Và quan trọng nhất là thực tập cách đánh đổ bộ, xáp chiến bằng
claymore, M16, và rút quân ngay lập tức, chiến thuật thần tốc nầy đã được các
đơn vị trinh sát sư đoàn xử dụng và giáng cho các đơn vị Bắc quân những cú tát
bất ngờ, nẩy lửa tại các đỉnh núi kéo dài từ Komtum lên Võ Ðịnh, Tân cảnh.
Trong hai ngày chuẩn bị, phải tập gói ‘’bánh
chưng’’, mỗi trái claymore kẹp thêm mười thỏi TNT để tăng sức công phá, thẩy và
giựt để giây mìn xếp theo dạng dây xoa dù T10 bung ra nhẹ nhàng, tập nhấn nút
chính xác để khi cái ‘’bánh chưng ‘’ vừa lọt xuống công sự địch là kích hỏa. Sở
dĩ không xử dụng lựu đạn, vì thời nổ không đủ nhanh và chính xác, địch có thể
chụp, ném lại, gây khó khăn cho đơn vị đột kích. Mỗi người chỉ đeo ba trái làm
quà xuân cho những người khách không mời mà đến, hai mươi băng đạn, hai bịch
gạo sấy, bi đông nước và poncho. Thời
điểm được quyết định vào đúng rạng sáng ba mươi
Mọi việc chuẩn bị coi như hoàn tất, đêm trước khi
lên đường, tôi ngồi với Ðằng, nhiệm vụ đã rõ ràng cho mỗi một người theo vị trí
và trách nhiệm trong đơn vị. Tôi chẳng giao thêm gánh nặng nào cho Ðằng, nhưng
sao vẫn cứ băn khoăn bứt rứt. Khi tôi về trung đội thì Ðằng đã ở đó, tiểu đội
khinh binh gồm tám người kể cả Ðằng luôn luôn đứng trước mọi hiểm nguy trên tất
cả mặt trận. Và tôi, trung đội trưởng đã luôn luôn theo sát, chia xẻ và cùng
quyết định với họ tất cả mọi tình thế, thế nên, sự an nguy của bản thân không
hề khác biệt giữa người nhảy xuống từ chiếc trực thăng thứ nhất, và chiếc thứ
hai, thứ ba, hay chiếc cuối cùng.
Hương mai rừng thoang thoảng ngoài cứ điểm, nhắc
nhở chúng tôi về những phong bao lì xì đỏ thắm trẻ thơ, bếp lửa giao thừa reo
vui ngày mới lớn, thùng bánh chưng cháy khét ngượng ngùng của cả ba đứa... Tôi
chẳng hiểu tại sao có thể ôm đầu, bó gối ngồi ngủ ngon lành, khi cùng Ðằng và
Mai nhận canh thùng bánh chưng chung cho cả ba gia đình đêm ba mươi tết, chẳng
biết đứa nào ngủ trước, đứa nào ngủ sau, nhưng khi chợt thức giấc thì bếp lửa
chỉ còn âm ỉ khói, và thùng bánh thì ôi thôi, chỉ còn một mùi khê khét nặc
nồng... Tôi biết, Ðằng cũng đang nghe thoang thoảng hương mai. Tôi biết, Ðằng
cũng đang đắm mình trong cõi hồi tưởng xa xôi êm ái. Tôi biết, chỉ còn một ngày
để bước vào năm mới, và cũng chỉ một ngày nữa thôi, để biết có còn không, những
đự định chưa thành.
Trung đội, làm gì còn đủ lính để gọi là trung đội,
khi chúng tôi chỉ có mười tám người, lên vừa đủ ba chiếc trực thăng, hai chiếc
trừ bị không chở quân và hai gunship hộ tống. Ðằng lên chiếc thứ nhất, tôi đi
chiếc thứ hai, phần còn lại của trung đội đi chiếc thứ ba. Chúng tôi chỉ có ba
mươi giây để rời tàu, mười lăm phút tấn công, thanh toán mục tiêu, và, một phút
để lên tàu trở về. Hy vọng mấy ông Pilot hào hoa, đủ gan dạ để xuống trúng chỗ,
nhất là khi trở về. Toán trực thăng bốc cao, bay vượt về phía tây, nơi những
triền núi dựng đứng lẫn trong sương mai mờ đục, những ngọn cây lướt nhanh dưới
thân tàu như muốn quất mạnh vào sáu đôi chân đang đong đưa hai bên thành cửa,
tàu nghiêng cánh hướng vào mục tiêu.
Theo kế hoạch đã thực tập, toán thứ nhất đổ xuống
phải dứt điểm hai vị trí trung tâm, toán thứ hai đánh bung lên mặt bắc, toán
thứ ba đánh dạt xuống phía nam. Phi hành đoàn sẽ bay cover đúng ba vòng quanh
mục tiêu rồi đáp xuống nếu chúng tôi còn sống và mở khói vàng. Mục tiêu rõ dần
trong thoang thoáng hơi sương, với cái lạnh và ẩm ướt của mịt mù rừng núi chưa
tỏ ánh mặt trời, trong chăn ấm cuối đông, có lẽ đơn vị địch không thể ngờ tử
thần đang ập đến, nên chiếc thứ nhất của Ðằng trút quân nhanh chóng, máy bay
vừa cất khỏi mục tiêu đã thấy nháng lên bốn chớp lửa và ầm ì tiếng nổ công phá
của mìn claymore, chúng tôi nhảy bung ra khỏi thành tàu, không chờ chạm đất để
tàu ngon trớn cất bổng lên nhanh chóng, rồi xông lên phía trước nhường chỗ cho chiếc thứ ba đổ quân đánh tấp
ngược về phía sau. Người hạ sĩ quan xạ thủ phi hành thấy cây phòng không 12 ly
8 nằm lật gọng cạnh thân tàu, nhanh tay nhảy xuống dỡ gọn thẩy lên mới chịu cất
cánh. Chiến trận tràn ngập những tràng M16 thanh toán mục tiêu và tiếng nổ đanh
gọn của claymore nổ ập xuống từng căn hầm đang ngái ngủ... Nhanh, nhanh hơn
nữa... Nhanh hơn nữa, những trái mìn tung xuống miệng hầm, dây mìn bung ngọt
lịm đủ khoảng an toàn cho kịp nhấn ngòi nổ, từng căn hầm nổ tung với gỗ, đá, và
cả xác người. Không một tiếng súng kháng cự. Chẳng phải anh hùng, tráng sĩ gì
đâu, đã đổ xuống đây rồi thì phải đánh, phải giành phần sống sót, phải tận dụng
hết khả năng và sự hung bạo của chiến tranh. Phải cướp và giữ chặt thời cơ.
Phải ghìm địch dưới những căn hầm. Phải la hét chửI thề. Phải đứng xổng người
lên mà bắn, rướn cao lên mà ném mìn, chúc mũi súng xuống miệng hầm mà tặc
tặc... tặc tặc... Ðm bung ra nhanh lên, cờ trắng hả? khỏi... khỏi... mạng giữ
chưa xong, sức đâu mà bắt tù binh... Ðm bắt về nó khai tùm lum, mất công lội,
Tết nhất tới nơi rồi. Ê! nói gì kỳ vậy... tôi chưa kịp hét với thượng sĩ Sáng
thì cây cờ trắng đã bắn tung lên cùng với căn hầm. Có ai muốn lên trực thăng
bay vào chỗ chết lúc năm cận tháng tàn? Lên rồi, bay rồi, tới rồi, thì phải
xuống. Xuống rồi thì phải đánh. Không lẽ xuống đó, đứng như trời trồng chờ lãnh
đạn? Mặc cho tiếng máy truyền tin ồn ào sôi sục, tôi máng ống liên hợp vào vai,
không có thì giờ đàm thoại. Mọi việc sẽ được trả lời nếu tôi còn sống
sót... Mười phút, hai vòng bay, chỉ còn
năm phút nữa là quay về, vậy mà trong năm phút phù du đó, chúng tôi mất Ðằng.
Khi toán thứ ba vừa đổ xuống, chỉ còn căn hầm cuối
cùng thì cũng là lúc địch bừng tỉnh và phản ứng. Ðiều nầy cũng không ngoài dự
tính, nhưng việc xẩy ra ngoài ý muốn là từ dưới thung lũng, họ tung quân phản
kích. Lưỡng đầu thọ địch. Không còn cách gì khác là phải nhanh chóng tiêu diệt
căn hầm còn lại trước khi quân tăng viện đối phương tớI được mục tiêu. Chúng
tôi đang ở sau lưng căn hầm đó, nên hướng tác xạ hoảng hốt của mấy khẩu AK
không ghìm được toán của Trung sĩ Vệ, thẩy nhanh hai trái claymore lên nóc hầm
và bấm nút, căn hầm vỡ toang cùng với tiếng nổ chát chúa của hai trái mìn nổ
ngoài khoảng trống, cùng lúc, địch bắt đầu pháo kích vào vị trí, vì biết chốt
của họ đã bị tiêu diệt. Tôi bung trái khói vàng và máy bay sà xuống thật nhanh,
bốc gọn hai toán cùng với con gà cồ còn lại, chiếc thứ ba chưa kịp đáp xuống
thì địch bắn dữ dội vào hướng con tàu nên chiếc trực thăng bắt buộc phải cất
cao, bỏ lại chúng tôi sáu đứa cùng với tiếng reo hò của địch ‘’...bắt sống thám
báo... bắt sống thám báo... hàng sống chống chết... hàng sống chống chết..’’
Trong nháng lửa của một trái 82ly, tôi thấy Ðằng rướn người lên và gục xuống.
Hạ sĩ nhất Kim ôm lấy xác Ðằng lăn nhanh xuống triền dốc trước khi đám đông Bắc
quân lố nhố tràn lên. Nhiệm vụ hoàn tất, tám căn hầm nát bấy. Không biết bao
nhiêu người ‘’sinh bắc tử Nam‘’ ở dưới đó. Hai con gà cồ cũng đã được đem về.
Không việc gì phải kháng cự trước áp lực đông đảo ngay trong sào huyệt đối
phương, tôi ra hiệu cho cả toán theo hướng rơi của Kim, buông mình tuột dốc,
thoát nhanh khỏi sự truy kích của địch, hướng về bãi đáp dự phòng. Tụi nó la
lối kiểu đó, chứng tỏ không biết tụi tôi là ai, quân số bao nhiêu, hoặc nhầm
tưởng lính thám báo sư đoàn bộ binh, và chắc là tưởng đã được bốc về hết, may
mà không có thương vong nào để lại, ngoài Ðằng đang nằm vắt bất động trên vai
Kim, chưa biết chết hay sống.
Ðằng không chết ngay lúc đó, vết thương ở thành bụng kéo dài nỗi đau đớn không chỉ
riêng cho Ðằng. Chúng tôi cởi áo, chặt cây rừng làm cáng, thay phiên nhau
khiêng, hối hả tiến nhanh về tọa độ bãi đáp. Hai cây số cách mục tiêu, đường đi
không phải suông sẻ gì, khi phải né tránh tối đa các đơn vị địch. Kim và tôi mở
đường, Thum đoạn hậu, xóa dấu vết. Hải, Quý khiêng cáng, Ðằng bất động, mặt tái
nhợt và môi khô nứt, mấy cuộn băng cá nhân không cầm được máu. Rừng quá rậm và
gai góc, dốc núi dựng đứng lởm chởm đá, trơn trợt rong rêu, và mưa lạnh. Mấy
lần cáng nghiêng muốn hất Ðằng và người khiêng xuống vực thẳm. Lòng tôi như lửa
đốt, ôi Ðằng ơi, mình đang trở về mà, ráng lên với tao, ráng lên với tao. Mặt
trời lên kìa Ðịch..., mặt trời lên kìa Ðịch... Tôi thấy hắn mỉm cười, một nửa
vành môi nhếch lên méo mó. Có tiếng trực thăng phành phạch xa xa. Nắng sớm mai
chưa kéo nổi đám sương mù đang trĩu xuống thung lũng. Kim thở hồng hộc sau một
đoạn quá dài băng bờ lướt bụi. Mặc kệ, phải tiến lên thôi, phải đem được Ðằng
về, và hắn phải sống, không lẽ mầy chỉ quay về đây để chết hả Ðằng?
Tôi thay Kim mở lên phía trước, còn một cây số dài
hơn hai thế kỷ, một ngàn thước hướng tới chỏm đồi thấp đã nhìn thấy dưới kia.
Một ngàn thước sá gì da thịt rách bươm với gai mây, tre nứa. Một ngàn thước máu
Ðằng nhỏ xuống tong tong ướt đẫm cáng thương binh. Tôi tuyệt vọng rẽ cây, vẹt
lá, nhắm hướng địa bàn càn lên phía trước. Máu nó ra thế kia làm sao sống nổi?
Cố lên thôi, cố lên thôi! Vẹt cành lá và tưởng như mình hoa mắt... cả một màu
vàng rực rỡ của mai, hoa mai, bất ngờ choáng ngợp khoảng rừng phía trước. Màu
vàng tươi và hương mai ngào ngạt, có làm tôi khựng lại một chút, rồi hối hả
tiến lên. Nhưng hình như Ðằng đã nhận biết, hắn ra hiệu cho Hải và Quý dừng
lại. Tôi nóng nảy ra thủ hiệu nhanh lên... nhanh lên. Quý vẫy tôi, rồi chỉ vào
Ðằng. Tôi biết điều gì đang đến, cắn môi nén cơn bật khóc, tao đã không cứu
được mầy Ðằng ơi! rồi chống súng quỳ xuống bên hắn, bàn tay lạnh ngắt bất động
trong tay tôi, máu đọng khô từng mảng trên quần, áo, băng ca. Mắt hắn nhắm
nghiền nhưng môi còn mấp máy, đôi môi khô tái vì mất máu và lạnh. Tôi cúi sát
để nghe những điều hắn muốn. Ngón tay trỏ yếu ớt hướng về cành mai rực vàng mà
hắn đã cảm nhận được qua mùi hương quen thuộc. Ðằng thều thào:
-Ðể
tao ở đây! ...Mai...!
Không chờ hắn nói hết, tôi nhỏm dậy ra hiệu cho Hải
và Quý tiếp tục, ráng lên, ráng lên may ra còn kịp. Rừng thưa rồi, chạy mau lên
Quý, đổ hết con dốc nầy là tới. Năm người sống và một người chờ chết, gom hết
sức bình sinh băng rừng vượt thoát.
Khi đến được bãi đáp, clear một vòng chung quanh
rồi lên máy gọi trực thăng, thì Ðằng đã chết, trên nắp túi áo trái của hắn còn
vương lại cánh mai rừng mong manh, chực chờ bay theo gió. Cánh hoa đã vô tình
rơi xuống lúc băng qua khu rừng mai, đậu ơ thờ bên trái tim, trái tim cho đến
lúc hết máu, vẫn quấn quýt cánh hoa vàng bạc mệnh.
Phan
Hội Yên
Lập Đông, Denver
Người chuyển bài – HM - USA
No comments:
Post a Comment