Lục bình trên dòng kinh đen
Tôi rời Đài Loan mang theo hình ảnh
những đứa bé Đài gốc Việt nheo nhóc. Và những cánh lục bình nổi trôi trên dòng
kinh đen. Chuyện cô dâu cũng như những chuyện tang thương của đất nước, có lúc
bùng lên rồi cũng lắng xuống và mất hút trong những lo toan đời sống của từng
người. Nhưng mỗi ngày trôi qua, vẫn còn đó những đêm có cô gái nằm trên nhà kho
sân thượng trằn trọc ngó chừng ra cửa, những bàn tay ngủ gục bị cắt đứt, những
cuốn phim nô lệ tình dục tiếp tục quay, và những vết tím bầm trên mắt trên
môi...
Mỗi sáng vào khoảng 9 giờ, khi chiếc
xe hốt rác trỗi bản nhạc Für Elise chạy quanh xóm, khi cụ già ở khoảng sân um
tùm cỏ bên kia con kinh đầy rác vừa xong thế Taiji cuối cùng, và bà Hui Xin
tưới xong những chậu kiểng xếp dọc theo lề đi, thì cô gái bước ra khỏi nhà.
Nhìn lên ban công gác trọ chỗ tôi ngồi, cô gái vẫy tay cười.
Tôi gặp Trang hôm Chủ nhật, một ngày
sau khi tôi đến Chung Li. Mặt trời buổi sáng chưa qua khỏi đỉnh cây sung mà
trời đã oi bức. Lúc ấy tôi ngồi ở ghế đá cạnh đình làng, loay hoay chụp hình
những người đàn bà Đài đang thắp nhang vái lạy Quan Công. Một bóng dáng chắc
chắn không phải là người bản xứ lọt vào khung nhìn máy ảnh tôi. Bỏ máy xuống,
nhìn lên tôi hỏi: em Việt Nam hở?
Trang 26 tuổi. Lần cuối nắm tay mẹ
trước khi làm cô dâu theo ông Cheng về Đài là ngày sinh nhật thứ 18 của Trang. “Sinh
nhật em dễ nhớ lắm, ngày hai tháng mười hai.” Trang cười nói với tôi vào
sáng Chủ nhật tuần sau. “Em nhớ hồi mới qua, trời cuối năm ở đây lạnh hết
biết luôn. Em dân Cà Mau cả đời đâu biết lạnh kiểu này. Em trùm mền, nhớ má
khóc cả tuần.”
Có thể nói Trang là một trong những
cô dâu Đài Loan thời “tiền trạm” và tương đối nhiều may mắn so với những cô dâu
khác. Đó là theo lời của Trang. Sáng Trang dậy lúc 6 giờ, làm điểm tâm cho ông
chồng, bà mẹ chồng, hai đứa con riêng của ông Cheng, giặt quần áo và phơi trên
những sào tre gắn từ cửa sổ chĩa ra đường. “Ngày nào cũng phải giặt chớ nếu
không hổng có chỗ phơi”. 9 giờ sáng Trang rời nhà ra chợ phụ bà em gái ông
Cheng bán cá đến chiều. Nấu ăn tối, chuẩn bị sẵn cơm trưa ngày hôm sau, dọn
cơm, rửa chén, quét nhà, tắm cho bà mẹ chồng, chùi rửa nhà cầu, Trang lên
giường là ngày đã qua ngày. “Lúc đó ông chồng em ngủ mất tiêu rồi, hổng biết
ổng lấy em qua đây làm gì.” Trang cười nói. “Cứ vậy đó anh, từ thứ Hai
cho tới thứ Bảy. Chủ nhật bà Li nghỉ bán hàng nên em được nghỉ theo. Anh muốn
gặp mấy đứa cô dâu với ô sin để tìm hiểu sự tình hở? Hi hi, anh hên gặp em là
thổ địa ở đây. Để tuần tới em dắt anh đi. Chủ nhật nghe. Anh tới mà chưa thấy
em thì cứ ngồi đó chụp hình mấy bà Tàu và chờ em.”
Lệ và Thi là dân Long Xuyên. “Con
này nó mới qua được hai năm, tình cảnh nó cũng bi đát lắm. Lệ, mày kể cho ảnh
nghe đi”. Lệ ngồi bó gối một hồi lâu. Tôi nhìn quanh căn phòng nhỏ mà Lệ
được một cô dâu khác đã bỏ chồng ra riêng cho ở tạm. Im lặng chờ.
“Khác với chị Trang, thằng chồng của
em nó còn trẻ, lái tắc xi. Lúc mới qua nó nghỉ một ngày lái xe chở em đi chơi
núi, chơi biển. Được đâu hai tuần thì nó dắt một con nhỏ Đài khác về phòng. Sau
đó em mới biết trước đây con này là bồ của nó. Tụi nó gây lộn nhau sao đó,
thằng chồng em nó nổi sùng qua Việt Nam cưới em. Bây giờ tụi nó làm lành với
nhau và thằng chồng em kéo con bồ nó về sống chung luôn. Tối nào thằng chồng em
cũng bắt em làm chuyện đó với hai đứa nó. Rồi còn quay phim nữa. Em không chịu
thì cả hai đứa nó xúm vào đánh đập em tàn nhẫn. Lúc đó, em ở bên Đài Trung,
không có điện thoại di động, không biết tiếng Hoa, không quen ai, em không biết
làm sao. Hai tháng sau thì em có bầu”.
Những ngày khởi đầu của dịch vụ cô
dâu, mỗi chú rể Đài thường phải trả cho công ty môi giới Đài và Việt từ sáu
ngàn tới mười ngàn đô. Sau khi khấu trừ các chi phí trả cho môi giới, chi phí
đám cưới, gia đình của cô dâu còn được hai tới ba ngàn đô. Khi con số cô dâu
gia tăng hơn tới gần 100 ngàn người thì giá cả cũng theo đà đi xuống. Gia đình
của cô dâu nhiều khi không được đồng nào và chỉ mong con gái của mình có cơ hội
ra nước ngoài làm ăn có tiền gởi về. Nhiều chú rể Đài sau này không cần phải
trả trước chi phí mà chỉ cần trả góp sau khi cưới vợ về.
“Lúc biết em có bầu thì nó không còn
bắt em làm chuyện đó nữa. Nhưng em phải chứng kiến cảnh tụi nó với nhau mỗi
đêm. Nhà nhỏ xíu chỉ có một phòng ngủ anh à. Có lần em ra bếp nằm ngủ thì nó
lôi em vào và sau đó mua ổ khóa khóa cửa luôn. Lúc em sanh con xong thì chuyện
cũ lại tiếp tục. Em chịu không nổi nên đành bỏ con trốn đi”.
Còn em thì sao, em qua đây mấy năm
rồi? Tôi quay sang hỏi chuyện cô gái ngồi cạnh Lệ. “Nó mới qua có mấy tháng
hà anh”. Lệ trả lời giùm cho Thi. “Nó là em gái út của em, mới 17 tuổi
hà. Nó chỉ tới thăm em bữa nay. Chồng nó già khụ rồi anh. Không có tiền nên ký
giấy trả góp cho tụi môi giới. Bây giờ ông già bắt nó đi chạy bàn ở karaoke để
trả nợ cho ổng. Ổng nói trả nợ xong hết thì ổng mới cho gởi tiền về nhà”.
Tôi nhìn hai chị em vừa xót thương
vừa không hiểu nổi. Hỏi Lệ là biết qua đây khổ sở, bị đối xử như nô lệ mà lại
còn kéo em gái mình qua. Lệ trả lời bằng những câu chuyện về đời sống hoàn toàn
không có gì ở quê mình. Những người đàn ông đã rời khỏi mảnh đất không còn gì
để mà sống. Những đứa con gái tới tuổi mười bảy, mười tám là bỏ cái làng không
còn gì mơ ước để mà đi. Lấy chồng Đài đã trở thành con đường thoát. Chỉ còn đâu
vài đứa trai làng buồn bã nhìn người bạn gái từ thời thơ ấu leo lên chiếc xe
hơi với gã đàn ông Trung Hoa già nua, để lại đằng sau một đám bụi mù. Vài đứa
may mắn, được nhà chồng cho ra ngoài đi làm, dành dụm một khoản tiền riêng gởi
về, cha mẹ thay nhà mái tranh thành nhà ngói đỏ. Những bà mẹ nhà mái tranh
khác, thúc giục đứa con gái vừa đủ tuổi đi ra khách sạn đứng xếp hàng.
*
“Lúc tôi tới nơi thì đã có hơn 50 cô
gái Việt Nam đang đứng xếp hàng và hơn 10 người đàn ông Đài Loan tới từng cô
ngắm nghía, sờ soạng”. Anh bạn người Đài tên Ken ngồi trầm
ngâm kể. Anh là người về Việt Nam dự trù cưới vợ theo lời mời gọi quảng cáo của
công ty môi giới. Là một tín đồ Công giáo, anh đồng ý gặp tôi qua sự giới thiệu
của một linh mục để thuật lại những gì anh đã chứng kiến. “Những cô gái này
đều rất trẻ và son phấn không che giấu được nét nhà quê, chất phác và dáng vẻ
ngượng ngập của họ. Nhưng có lẽ tôi mới là người ngượng ngùng và xấu hổ nhất
lúc đó. Nhìn những người Đài bản xứ của tôi ngắm nghía, sờ mó các cô gái ấy và
cười với nhau hô hố mà tôi hổ thẹn”. Ken nói sau lần đó, anh về lại khách
sạn và không đi nữa.
Nhưng những người Đài khác ở cùng chỗ
trọ đã kể cho anh nghe những chuyến “cô dâu ra mắt” ấy như thế nào. Có những
nơi, đám môi giới bắt cả 100 cô gái Việt Nam xếp hàng, không một mảnh vải trên
thân để những gã đàn ông lựa chọn. Có nơi, nhiều cô gái xếp hàng đứng ngoài
hành lang chờ đến phiên mình. Có những cô gái được chọn là chú rể tiến hành
ngay đám cưới. Có cô sau đó phải đi với chú rể tương lai, gọi là để tìm hiểu
nhau thêm, ở nhà hàng lẫn khách sạn. Không hài lòng thì trở lại chọn cô khác.
Có chú rể cố tình trải qua nhiều vòng chọn lựa chỉ vì thích thú những màn miễn
phí này.
“Những cô gái Đài ngày hôm nay trông
được một chút thì không bao giờ đoái hoài tới những người đàn ông trung bình
như tôi”. Ken tiếp tục kể. “Thấy những bảng trên xa lộ quảng cáo dịch vụ kết
hôn, nhìn hình ảnh những cô gái Việt Nam dễ thương, tôi muốn kiếm một người vợ
trước khi quá muộn. Tôi cũng đã quá 30 rồi. Nhưng tôi không ngờ con người lại
bị đối xử như con vật như thế. Tôi về lại Đài Loan không vợ mà còn mất hết tiền
vì công ty môi giới không chịu trả. Họ nói hoặc là tôi lấy đại một cô hoặc là
không được gì hết. Tôi không đi kiện tụng ai được vì tôi nộp tiền và ký giấy
cho họ, tôi chẳng có gì hết. Tôi cũng không dám nói với ai vì không dám đụng
đến đám xã hội đen”.
Có nhiều loại chú rể Đài lấy vợ Việt
khác nhau. Ken là một đóa sen trong ao bùn. Đa số những người đàn ông Đài qua
Việt Nam lấy vợ là những người không lấy được vợ Đài. Nói khác hơn là phụ nữ
Đài họ chê. Đài Loan bên trong là một xã hội kỳ thị giữa những tầng lớp khác
nhau. Lái taxi ăn trầu thì khó mà lấy được những cô gái trẻ sinh viên mới ra
trường. Bên cạnh, người Đài cũng kỳ thị với những cô dâu gốc Việt, gốc Phi ô
sin, ngay cả người từ Lục địa đến. Vì thế một người đàn ông Đài Loan thành công
cũng không muốn lấy phụ nữ Việt Nam dù đó là phụ nữ đẹp. Phụ nữ Đài Loan không
đẹp như các tài tử đóng phim. Những người đàn ông bị gái Đài chê mà lại thích
vợ đẹp và qua Việt Nam lấy vợ, vì thế, là những tài xế tắc xi miệng ăn trầu
ngồm ngoàm, là những ông già lụm khụm, là bảy tên chồng du đãng gom tiền lại
cưới một cô dâu đem về chia nhau làm tình, là đám xã hội đen buôn người cho ổ
chứa. Và là những người tàn tật.
“Lúc về tới nhà em mới biết người em
cưới không phải là chồng em. Cái tên đàn ông trẻ trung làm đám cưới bên Việt
Nam bây giờ nó gọi em là má. Ba nó mới thiệt là chồng em”.
Sao vậy? Chứ hồi ở bển em không biết
sao?
“Sao biết được! Tụi công ty môi giới
nó đưa giấy tờ tên họ chữ Hoa em có biết đứa nào là đứa nào. Và em ký thôi.
Được người cưới là mừng hết lớn rồi anh. Còn được đám cưới linh đình. Nó còn
cho má em ba ngàn đô. Ai mà ngờ được anh. Qua đây mới biết là tên trong giấy tờ
là tên của ba nó. Ổng già hơn 60 và bị tàn tật, không cử động đi đứng gì được.
Đi ăn, đi tắm, đi tiêu, đi tiểu gì cũng phải có người chăm sóc. Trước đây, mỗi
tháng nó trả 20000 Đài tệ để mướn người tới nhà làm mấy chuyện đó. Bây giờ thì
là em. Nó bỏ ra tổng cộng 7000 đô Mỹ để lừa cưới em cho ba nó, tính ra chưa tới
một năm là nó huề vốn. Còn lại là em phải làm kiếp ô sin không lương cho ông
chồng già tới khi ổng chết”.
*
Buổi chiều về tôi và Trang đi bộ dọc
theo bờ con kinh nước đen. Hai anh em không nói gì nhiều với nhau. Trang như
đoán được tâm trạng của tôi nên ráng an ủi:
“Anh đừng buồn, tụi nó có khổ lắm thì
cũng 5 năm là có thể vào quốc tịch. Lúc đó đứa nào cũng bỏ mấy thằng chồng cà
chớn. Tuần tới em dắt anh tới chỗ mấy đứa loại đó. Chuyện con Lệ kéo thêm con
Thi anh cũng đừng trách nó. Đứa nào qua đây khấm khá thì nổ như lựu đạn về bên
nhà, đứa bị đánh đập, giày vò thì giấu. Anh biết tại sao tụi nó phải giấu
không? Có đứa sợ ba má nó buồn. Có đứa sợ ba má nó chưởi là không biết chìu
chồng, thua con Tư hàng xóm mỗi tháng gởi tiền về mấy trăm. Có đứa thì sợ bị
quê vì trước khi đi tuyên bố huênh hoang. Nên ở nhà cứ tưởng tụi em qua đây yên
bề yên bến và thúc hối những đứa còn lại ra đi. Anh nói tụi em khổ còn hơn nô
lệ. Em thì thấy ở nhà còn khổ hơn. Nói chung tụi em biết sống chai lì và quen.
Như cái mùi nước kinh này, riết rồi em cũng quen không còn khó chịu như những
ngày đầu mới tới”.
Tôi nghe Trang nói mà đầu óc cứ lan
man với những mảnh đời tôi mới gặp. Tôi nhớ lại hình ảnh của cô bé Vi mà Trang
dẫn tôi vào thăm ở bệnh viện lúc trưa. Vi vừa sống đời của một món đồ chơi tình
dục trong vai trò cô dâu, vừa sống đời của một ô sin ở đợ. Gia đình chồng của
Vi tổng cộng 14 người, sống nhung nhúc trong một căn nhà chật hẹp. Từ sáng tới
chiều Vi hùng hục làm hết mọi chuyện của một người đi ở. Đến chiều, khi cả nhà
ăn uống xong thì Vi phải tới xưởng làm đồ nhựa của chồng để làm ca đêm. Khuya
về, Vi phải phục vụ người chồng và nửa đêm đều đặn thức giấc để dìu ông già
chồng đi vệ sinh. Mỗi ngày được nhắm mắt bốn tiếng, Vi đã ngủ gật trên giàn máy
cắt nhựa và bị cắt mất đi bàn tay phải. Tôi về lại gác trọ và ra sau ban công
ngồi. Vẫn chưa quen được mùi kinh hôi thối cuốn theo con gió làm xào xạc tàu lá
chuối rách cạnh nhà.
*
Chủ nhật sau gặp Trang tôi kể Trang nghe chuyện một cô gái ô sin mà cha linh mục dẫn tôi đến gặp để giúp đỡ. Trước khi kể, tôi cũng nói trước với Trang là chuyện anh kể lại có nhiều điều khó nghe nhưng Trang lớn rồi, chắc không sao. Trang cười nói em đã nghe nhiều chuyện lắm, chuyện anh chưa chắc “mặn” bằng chuyện em nghe đâu.
“Kim đi làm ô sin, bị người chủ hiếp.
Kim trốn được chạy tới chỗ cha nhờ giúp đỡ và cha khuyên là phải kiện người chủ
ra tòa. Luật sư cần nó viết bảng tường trình sự việc nhưng Kim không muốn cha
làm chuyện đó. Kim cũng đang khủng hoảng tinh thần mạnh lắm, may ra con giúp
được nó”. Vị linh mục dặn dò tôi vào buổi sáng trên đường đến gặp Kim.
Khác với những cô dâu mà tôi đã gặp,
Kim đã hơn 30 tuổi. Ngồi trò chuyện với Kim tới trưa, tôi chỉ hỏi toàn chuyện
thời Kim đi học. Kim kể tôi nghe những ngày đi buôn từ Tây Ninh, tới Mộc Bài
sang tận Phnôm Pênh và đã học tiếng Miên lẫn tiếng Hoa như thế nào. Kim tiều
tụy, mắt sưng đỏ nhưng vẫn còn đâu đó hình ảnh của một thiếu nữ xinh đẹp. Cho
đến sau khi ăn trưa xong, Kim mới cảm thấy gần gũi để kể chuyện của Kim cho tôi
nghe và qua đó nhờ tôi viết giùm bài tường trình cho luật sư đệ trình trước
tòa.
“Chủ em là giám đốc một công ty nhỏ.
Nhà chỉ có hai cha con. Ông chủ và ba của ổng. Cả ngày em ở nhà dọn dẹp và hầu
hạ ông già. Ổng tuổi cũng cỡ ngoại em. Nhiều khi đi ra đi vào, ổng cứ tìm cách
cọ quẹt người em”.
Rồi em có về nói lại với ông chủ
không? Tôi hỏi. Kim lắc đầu:
“Em chưa kịp nói thì tối ông chủ về
đã xông vào giường em. Phòng em trước đó là một cái gian chứa đồ nhỏ trên sân
thượng. Không có chốt cài cũng không có khóa. Em chống cự thì ông chủ không nói
gì chỉ bỏ đi. Cứ thế hết đêm này tới đêm khác. Em phải chờ tới hai, ba giờ
sáng, lúc chắc chắn ông chủ đã ngủ thì em mới yên tâm đi nằm. Tháng trước,
không biết sao em buồn ngủ quá, đồng thời em đang có tháng nên nghĩ chắc không
sao. Cho nên lúc ông chủ vào phòng đè chặt lên người em, em thức giấc, chống
trả một hồi lâu thì đuối sức. Em khóc lóc van xin, nói em đang có tháng ổng
cũng không nghe”.
Kim vừa kể vừa khóc. Có lúc tôi thấy
Kim rùng mình. Kim dừng lại và nói thôi anh, em không kể được nữa. Tôi nói Kim
nghỉ một chút để tôi đánh máy lại những ghi chép ngắn thành bài viết. Một lát
Kim trở lại ngồi đối diện với tôi, cúi đầu ngập ngừng:
“Thật ra có một lần trước đó ổng sắp
hiếp được em. Nhưng ổng không làm được vì ổng... tới trước khi ổng cởi được
quần lót của ổng.”
Tôi ngừng đánh máy, tránh nhìn Kim và hỏi Kim nhớ lại cho kỹ, những điều này khó nói nhưng khi ra tòa luật sư của phía bên kia sẽ vặn hỏi Kim. Làm sao Kim biết là ổng như vậy khi ổng còn mặt quần lót. Tôi viết lại một cách gãy gọn như vậy nhưng lúc đó tôi đã lúng túng nói không thành câu. Cả hai anh em đều ngượng ngùng. Kim khóc sướt mướt. Tới cuối ngày tôi mới viết xong bản tường trình cho Kim. Lần gặp lại sau đó Kim tâm sự, “khi em kể lại cho anh, em có cảm giác đau đớn và ghê tởm không khác gì lúc chuyện xảy ra”.
Chủ nhật một tuần trước khi rời Đài
Loan, tôi cùng với Trang lên Đài Bắc ghé thăm nhà thờ của cha linh mục và khu
chợ nơi đông đúc các cô dâu Việt Nam đang ở như Trang đã hứa. Đi xuyên qua
đường chợ đông người, lạc lõng đứng một mình bán rau là một cô gái Việt Nam làm
dâu xứ người với nụ cười và đôi mắt mà suốt đời tôi không bao giờ quên.
Quán Bình Minh là một tiệm nhỏ. Chủ
Việt, khách cũng Việt. Toàn là phụ nữ. Theo Trang, đa số các cô ở đây đã đến
Đài nhiều năm. Có cô còn ở với chồng. Nhiều cô đã bỏ chồng. Vừa ngồi xuống tôi
đã chứng kiến thêm một cảnh đời mới.
“Đ.m mày biết không, tối hôm qua tao
gọi về bà già, đ.m. nói chưa hết câu bả đã đòi gởi tiền…” Một cô dâu khác tiếp
lời “thì đ.m. mày cả mấy tháng rồi mày không gởi bả chửi là phải. Đ.m. mày đi
đánh bài, cào một cái trăm đô, đ.m...”
Linh mục nhìn tôi cười, quay sang hai
cô gái nói, thôi nghe, có cha đây làm ơn bớt nói mặn một chút. Trang cũng cười
với tôi, “chưởi thề là phong trào mới đó anh, đứa nào ở cái chợ này cũng
chửi thề, càng chửi càng thấy sướng”. Cô chủ cũng là đầu bếp cũng là tiếp
viên đem nước tới tiếp lời “đời này không chửi thì làm gì cha”. Cô nhìn
linh mục cười.
Lân la ngồi quán hơn một giờ tôi lại
nghe thêm về những mảnh đời khác. Chuyện cô gái vừa tới phi trường là bị đám xã
hội đen chở thẳng về nhà gái, có cô sau đó bị đưa qua Quảng Châu. Chuyện cô gái
sau vài tháng thì chồng bán lại cho người khác, có cô bị bán hơn một lần.
Chuyện cô gái bị em chồng, cha chồng thay phiên nhau làm nhục mỗi tối. Mỗi câu
chuyện được kể lại bằng những tiếng chửi thề giòn tan đ.m đời tụi em nó chó
đẻ vậy đó anh!
Trang, tôi, và vài cô dâu kéo nhau về
nhà xứ của cha. Các linh mục Việt Nam ở Đài có thú tiêu khiển nuôi chim. Vị
linh mục tôi ghé thăm cũng vậy. Ùa vào chỗ ở của cha, các cô dâu đã ào ào nắc
nẻ: “cha cho tụi con vào thăm chim cha; trời ơi chim cha bây giờ sao lớn dữ
dzậy; hi hi, cha cho con tắm chim cha nghe...” Linh mục nhìn tôi cười hiền:
“Tụi nó vậy đó con, miễn sao tụi nó còn cười là cha vui rồi. Có người trách
cha sao quá dễ dãi với tụi nó. Cha thì biết tụi nó không còn tha thiết gì với
lễ nghĩa nữa. Đời đã làm cho tụi nó chai lì. Thôi, miễn sao tụi nó cảm thấy gần
gũi cha để có gì cha giúp tụi nó là được rồi”.
Buổi chiều tôi ghé văn phòng Bộ Xã
hội Đài Loan. Tiếp tôi là một nhân viên phụ nữ người Đài dáng vẻ hách dịch hỏi
tôi cần gì. Tôi kể về tình cảnh của những phụ nữ Việt Nam lấy chồng Đài. Chưa
đầy câu chuyện bà ta đã ngắt lời: anh cần tôi giúp gì?
Cố gắng dằn cơn giận, tôi nói với bà ấy tôi nghĩ bà mới là người cần giúp; theo thống kê của chính cơ quan bà đang làm việc, thì hiện nay ở Đài có hơn một trăm ngàn cô dâu Việt Nam. Chồng của họ là những người già nua, hoặc ít học, say sưa và đánh đập vợ con. Những người vợ Đài mới này không nói tiếng Hoa, cô lập trong xã hội đang sống; mỗi cuộc hôn nhân dẫn đến trung bình là hai đứa con; những đứa con trong một gia đình tan nát, bố mẹ như vậy thì chúng sẽ là hai trăm ngàn công dân Đài Loan hư đốn trong tương lai mà xã hội của bà phải giải quyết. Và con số sẽ không dừng lại ở một trăm, hai trăm ngàn. Mỗi cô dâu đem lại lợi nhuận cho môi giới Đài lẫn Việt trung bình ba ngàn đô. Nhân lên là ba trăm triệu đô. Một dịch vụ không cần nhiều nhân viên, phòng ốc, chỉ cần những con người làm vật buôn bán, đem lại lợi nhuận khổng lồ như thế thì nó sẽ tiếp diễn... Tôi nói nhiều, nói không kịp dừng để thở. Bà nhân viên xã hội nhìn tôi. Tôi biết, qua ánh mắt nhìn, bà ta chưa bao giờ nghĩ tới những chuyện đó.
Tôi rời Đài Loan mang theo mùi nước
kinh nồng thối, mang theo những buổi tối ngồi trên căn gác nhìn theo bóng đứa
em hợp tác lao động vừa mới kết nghĩa ngả dài trên lòng đường đi về lại công
ty, mang theo những buổi sáng ngồi chờ đứa em gái đi ngang vẫy tay cười.
Tôi rời Đài Loan mang theo hình ảnh
những đứa bé Đài gốc Việt nheo nhóc. Và những cánh lục bình nổi trôi trên dòng
kinh đen. Chuyện cô dâu cũng như những chuyện tang thương của đất nước, có lúc
bùng lên rồi cũng lắng xuống và mất hút trong những lo toan đời sống của từng
người. Nhưng mỗi ngày trôi qua, vẫn còn đó những đêm có cô gái nằm trên nhà kho
sân thượng trằn trọc ngó chừng ra cửa, những bàn tay ngủ gục bị cắt đứt, những
cuốn phim nô lệ tình dục tiếp tục quay, và những vết tím bầm trên mắt trên
môi.
Tôi rời Đài Loan mang theo lời của
Trang: Anh nói tụi em khổ còn hơn nô lệ. Em thì thấy ở nhà còn khổ hơn. Lời nói
ấy đã dẫn đến một bước ngoặt của đời tôi.
Dân Làm báo
304Đen - llttm
1 comment:
Đoc muốn rơi nước mắt
Post a Comment