Sunday, November 30, 2025

Đưa Em Về - Thuyên Huy

 Đưa Em Về




Sắc Không - Hoàng Đạo

 

Sắc Không




 

Hai người đã đến cửa Tam quan. Cương đứng lại, dựa mình vào gốc đại, nhìn cảnh chùa yên lặng trong cảnh chiều và nói:

-Tôi nghiệm ra rằng các nhà tu hành, theo tôn giáo vùng nào cũng vậy, đều có một vẻ mặt riêng. Nhà sư ta vừa gặp, tôi thấy hao hao giống nhiều vị cố đạo tôi quen; họ đều có một khuôn mặt khắc khổ, không sao lẫn được.

-Tôi không dám chắc. Đời các nhà sư bình tĩnh, phẳng lặng như ao tù thì họ còn đau đớn gì mà nét mặt khắc khổ được. Theo ý tôi…

Cương ngắt lời bạn. Chàng nói bằng một giọng trầm, như chứa chất một tin tưởng rất chắc chắn:

-Anh lầm.

Cương ngừng một giây, nhìn ánh mặt trời yếu ớt chiếu ngang vào gác chuông, thủng thỉnh nhắc lại:

-Anh lầm. Anh có quan sát mặt biển cả bao giờ không? Những buổi chiều sắp có giông bão, mặt biển yên lặng lạ lùng. Nhưng chính lúc ấy, những làn sóng ngầm rất bạo liệt đương chuyển động cả đáy biển. Đời nhà sư cũng vậy, anh ạ, chỉ phẳng lặng ở bên ngoài.

Thái cười mai mỉa:

-Và cả ở bên trong nữa!

Cương không trả lời, mắt lơ đãng nhìn vào quãng không. Sự tịch mịch chung quanh tăng lên dần với bóng chiều. Thái nhìn bạn:

-Anh nghĩ gì mà thờ thẫn cả người ra thế?

-Tôi nghĩ đến một câu chuyện xảy ra cách đây đã lâu, và vai chủ động là một nhà sư sống một đời phẳng lặng như anh vừa nói. Đến mãi bây giờ, tôi vẫn không quên được. Câu chuyện người khác cho là rất tầm thường nhưng tôi thấy hàm một ý nghĩa rất xâu xa. Anh biết chùa N… ở vùng Bắc đấy chứ? Nhưng có lẽ anh không biết: anh có hay vãn cảnh chùa chiền đâu! Một ngôi chùa hẻo lánh vắng vẻ gấp trăm cảnh chùa này. Chùa làm trên sườn đồi, trong đám thông gió, mặt nhìn xuống một con sông nhỏ. Chung quanh là đồng ruộng chạy mãi đến tận chân trời. Mênh mông êm tĩnh, anh ạ. Chiều chiều, lúc mặt trời lặn, nghe chuông chùa thong thả rơi từng tiếng một, đến anh cũng phải cảm thấy tâm hồn tiêu tan vào sự buồn nản vô cùng của hư không. Mỗi tiếng ngân vang đi rất xa, lắng tai như nghe thấy sự rung chuyển của không khí trong êm lặng. Tôi chưa thấy một ngôi chùa nào tĩnh mịch hơn: dẫu linh hồn đương xúc động mạnh đến đâu, ở đấy cũng phải trở lại bình tĩnh với sự bình tĩnh vô cùng của cảnh chùa.

Trụ trì chùa N… là một vị sư ông ngoài ba mươi tuổi, ít nói, ít cười, vẻ mặt lạnh lùng, và một chú tiểu ngây thơ, mộc mạc. Sư ông không biết ở đâu đến, nhưng thật là một vị sư cần mẫn, lúc nào cũng tụng kinh, niệm Phật. ở vùng ấy, ai cũng mến phục, có lẽ kính nể sư ông nữa; thấy sư ông bao giờ cũng trịnh trọng nghiêm trang, người ta thì thầm bảo nhau rằng sư ông là một vị chân tu đã đến cõi Nát bàn ngay trong thời hiện tại.

Cuộc đời của sư ông êm ả quá, ngày này sang ngày khác trong sự tĩnh mịch phẳng lặng. Mặt ao tù, như anh bảo. Nhưng thật ra là mặt biển khi lặng sóng.

Một mùa xuân kia, mơn mởn như má cô gái dậy thì. Hai cây đào trồng cạnh ngôi chùa và mấy cụm mẫu đơn thi nhau nở hoa; mùi hoa cam, hoa bưởi ở ngoài vườn, gió đưa vào chùa, pha trộn với mùi hương trầm; những chòm lộc non xanh rờn chung quanh chùa; tất cả sắc và hương của cỏ cây gặp tiết mới nở giãn ra, đầm ấm, say sưa như men rượu.

Thiện nam tín nữ rập đến chùa lễ bái và vãn cảnh. Trong mưa phùn, những mẫu quần áo rực rỡ làm tươi hẳn cảnh chùa vốn lạnh lẽo quạnh hiu, khiến cho ai nấy đều có cái cảm tưởng là cả đến ngôi chùa cũng sống lại với mùa xuân.

Trong những ngày vui vẻ ấy, dễ thường chỉ có sư ông là vẫn thản nhiên lãnh đạm, không cười nói, tâm trí bận theo đuổi một giấc mộng xa xôi huyền bí. Đời của sư ông về bề ngoài, vẫn bình tĩnh một cách dị thường. Ai có tinh ý lắm mới nhận thấy sư ông gầy đi, mắt sâu hơn, má hóp thêm. Người ta bảo đó là vì sư ông thức khuya nhiều quá, và kể chuyện với nhau rằng có đêm, những đêm hương thơm của cỏ hoa nồng nàn quá, trong làng đã đổ canh tư rồi mà vẫn còn nghe tiếng mõ đều đều vọng ra ngoài đồng vắng.

Một ngày về cuối xuân, trời mưa bụi, không khí ấm và nóng như báo trước những ngày hè sắp tới; một ngày người ta thấy chân tay rời rã, máu đọng lại trong các mạch. Khách thập phương đến lễ đông, nên sư ông bận trên chùa từ sớm, hương trầm nghi ngút xông lên suốt cả buổi.

Mãi đến quá ngọ, sư ông mới xuống nghỉ dưới gian nhà tổ. Sư ông ngồi yên, hai tay mỏi mệt đặt lên cặp đùi gầy, mắt mở to nhưng không trông thấy gì hết.

Bỗng chú tiểu ở ngoài chạy vào, vừa thở vừa nói:

-Bạch cụ… hai người đến vãng cảnh chùa ban nãy ạ… Họ đem nhau đến sau tháp, bẩm cái tháp lớn ạ…

-Thật thế à? Gọi ông Lý mau!

Sư ông đứng phắt dậy, mắt sáng quắc, mặt tái đi, và chân tay run bật lên.

ở ngoài, mưa đã tạnh. Một mảnh trời lộ ra sau những đám mây xám. Một ngọn gió êm, lơi lả đưa lại hương thơm nhẹ của cỏ hoa. Nhưng sư ông không còn vẻ thản nhiên lúc thường; trong khi đợi lý dịch, sư ông cuồng lên như một con thú dữ; đi đi lại lại trong phòng một cách nặng nề hấp tấp.

Vừa thoáng thấy Lý trưởng, sư ông chạy xốc ra:

-Mô phật! Nhờ chư ông bắt giùm. Thật họ làm dơ bẩn cả nhà chùa.

Sư ông hối chú tiểu dẫn đường đi ngay để bắt cặp gian phu dâm phụ. Những nét bình thản trên mặt sư ông, ai cũng trông thấy rõ đã rối loạn vì lòng phẫn nộ:

-Bắt lấy chúng nó!

Nhưng tiếng động đã đánh thức cặp tình nhân đang mê mải say sưa. Thấy bóng người, họ vội vàng lẩn trốn. Người đàn ông nhanh chân chạy thoát, chỉ còn lại người đàn bà bị bắt dẫn đến trước mặt nhà sư.

Sư ông đăm đăm nhìn người đàn bà từ đầu đến chân như nhìn kẻ thù. Đôi mắt sắc của sư ông sáng lên theo dõi từng cử chỉ của cô ả; dừng lại một giây trên đôi vai tròn trĩnh để hở trong chiếc áo chưa cài hết khuy, rồi nhìn thẳng vào khuôn mặt trát đầy phấn và cặp môi đỏ chót. Nét mặt sư ông tỏ ra vẻ giận dữ và khinh bỉ đến cực độ.

Cô ả ăn mặc lòe loẹt như một gái giang hồ, vẻ mặt lo lắng, hai tay chắp lại van xin, mắt nhớn nhác nhìn sư ông và mọi người như năn nỉ.

-Xin cho dẫn lên huyện!

Tiếng nói rít, đầy oán hận của sư ông khiến ai nấy giật mình. Lý trưởng lưỡng lự một giây.

-Trời chiều mất rồi, bạch cụ. Có dẫn lên huyện cũng không kịp.

Hay là …. cụ cho giam tạm ở chùa cho đến mai.

-Không thể được ạ.

Nhà sư nhất định từ chối và nhờ vậy cô ả kia được tha, sau một hồi xỉ mắng. Sư ông nhìn cô ả sửa lại vành khăn, xốc lại quần áo rồi lủi thủi bước ra khỏi Tam quan.

Đêm hôm ấy, sư ông thức khuya lắm. Tiếng mõ cứ đều đều đổ dồn vào yên lặng. Và hôm sau, người ta ngơ ngác kháo nhau rằng sư ông đã bỏ chùa ra đi, không biết là đi đâu. Người thì bảo sư ông hóa điên, người suy nghĩ hơn, bảo sư ông không muốn tu ở một ngôi chùa đã ô uế, trốn đi tìm một ngôi chùa khác, tĩnh mịch hơn.

Sự thật không ai ngờ đến cả. Sư ông đã cởi trả áo nhà chùa, trở về với đời nghiệp chướng.

Cương ngừng lại, châm thuốc hút một hơi dài. Làn khói quyện lấy hai người. Thong thả, ở trong chùa, ngân nga tiếng chuông thu không, như điểm cuộc đời yên lặng trong cảnh tịch mịch hư vô.

Thái yên lặng nhìn bạn. Cương đưa mắt nhìn theo khói thuốc bay, chậm rãi nói:

-Đấy anh xem. Cuộc đời phẳng lặng của sư ông chùa N… là hầu hết cuộc đời của các nhà tu hành. Phẳng lặng ngoài mặt, nhưng bên trong rối loạn vô cùng. Thật là một bãi chiến trường. Bãi chiến trường của tín ngưỡng và dục vọng. Đè nén dục vọng không phải dễ dàng; trái lại, nhà tu hành mỗi lúc mỗi đau khổ lắm mới giữ được mình. Cuộc chiến đấu càng lâu càng tăng vẻ mãnh liệt; phần nhiều thì ngọn lửa lòng cháy một ngày một bốc, cho đến lúc làn gió nhẹ bên ngoài thổi qua cũng đủ làm bùng to lên.

Những ngày xuân ấm là những ngày đau khổ nhất cho các nhà tu hành; chung quanh họ, từ bông hoa ngọn cỏ cho đến muông thú, thấy đều say mê trong thanh sắc, trong dục vọng, riêng các nhà sư phải sống theo nhịp một điệu riêng, điệu của hư vô, của cõi chết. Nhưng nhắm mắt lại, chắc họ còn cảm thấy gió xuân mơn trớn như chiếc hôn nhẹ, và lúc gõ mõ tụng kinh, nhiều hình ảnh khêu gợi chắc đương lả lơi trước mắt.

Tôi nghĩ mà thương sư ông chùa N… ngày rằm tháng giêng. Những dáng điệu vô tình lả lơi của các cô gái đi trẩy hội, màu áo và hình sắc, mùi phấn và nước hoa lẫn vào hương trầm, ngần ấy thứ thừa sức cám dỗ một người, và người bao giờ cũng yếu đuối. Anh đừng tưởng sư ông phẫn nộ nhìn cô gái giang hồ là vì không tôn trọng luân lý: sư ông lúc đó đương chống giữ với sự cám dỗ bên ngoài, và vì thế sinh ra thù oán đến căm hờn nguồn rễ của dục vọng, người đàn bà. Lúc sư ông nhìn một cách ghê tởm và khinh bỉ thân thể cô gái giang hồ, tôi chắc là lúc thân thể sư ông rung động vì dục vọng bị đè nén, và sư ông đã ghê tởm và khinh bỉ chính người sư ông mà không biết. Ngọn lửa nhóm trong lòng sư ông đã cháy lâu rồi, không thể dập tắt được. Đôi vai tròn lẳn của cô ả chỉ là một giọt dầu đổ thêm vào đám lửa đương ngùn ngụt…

Ngừng một giây, Cương buông từng tiếng một, như vừa nói vừa nghĩ:

-Sư ông bỏ chùa là phải.

Chung quanh hai người, trời đã bắt đầu tối sẫm. Thái nghe tiếng bạn nặng nề rơi vào quãng không, như hàm súc một sự cảm động rất mạnh nhưng ngấm ngầm.

Chàng đột ngột hỏi:

-Sao anh biết rõ tâm lý nhà sư ấy thế?

Cương không trả lời. Chàng mỉm cười, đôi mắt nhìn vào trong đêm như nhìn một ký vãng mù mịt. Thái ngạc nhiên nhìn, và bỗng nhận rõ mặt Cương nổi bật lên trong tối, mắt sâu, má hóp, vẻ khắc khổ như mặt kẻ tu hành.

Hoàng Đạo

Trích từ tuyển tập “Tiếng Đàn”.
Nxb. Đời Nay, Hà Nội, 1941

 

Những Ngày Em Còn Không - Phùng Quân

 Những Ngày Em Còn Không




















Chưa gọi bao giờ một tiếng em
Thơ ngây em nhẹ bước qua thềm
Sao xưa anh chẳng làm hơn thế?
Ngại lẽ gì khi ta mới quen!

Chưa gọi bao giờ một tiếng em
Nên chi em chẳng chút ưu phiền
Hay anh ngây dại mà như thế?
Để cuối đời nhau một cõi riêng!

Anh gọi bây giờ một tiếng em
Nghe trong xa vắng dạ em mềm
Sao xưa anh chẳng làm như thế?
Để cuối đời nhau tiếc nhớ thêm!

Anh gọi bây giờ một tiếng em
Trong cơn giông bão trút mưa rền
Sao xưa anh chẳng làm hơn thế?
Thăm thẳm nghìn xa một cõi đêm.

Phùng Quân

Năm Năm Trời Không Gặp - Lê Đình Bì

 

Năm Năm Trời Không Gặp…

1

Năm năm trời không gặp
Từ khi em lấy chồng

Người đẹp Đông Hà trong bài thơ “Chuyện Tình Buồn” của Phạm Văn Bình được Phạm Duy phổ nhạc là ai?



Xin trả lời ngay: Đó là chị Nguyễn Thị Tuý, người đẹp nổi tiếng Đông Hà một thuở. Xin xem hình để thấy “chị ấy” hồi đó như thế nào mà khiến cho nhiều chàng trai, nhất là các sĩ quan trẻ một thời áo trận, đã chết mê chết mệt. Lý giải vì sao Đông Hà chỉ là một thị trấn nhỏ thuộc tỉnh Quảng Trị, nằm ở miền địa đầu giới tuyến mà sản sinh ra không biết bao nhiêu là người đẹp… Trước đây, đã có lần tôi nêu lên giả thuyết là vào thời điểm Vua Hàm Nghi bỏ kinh thành Huế, chạy ra Tân Sở, phát hịch Cần Vương và lập chiến khu chống lại giặc Pháp, nhiều cung phi mỹ nữ cũng chạy theo Vua và trong số đó, một số người “rơi rớt” lại, hoặc sau này được trở về đời sông dân dã, đã lập gia đình với cư dân địa phương, thành ra, những cô gái Đông Hà, Cam Lộ… rất nhiều cô phải nói là “đẹp mê hồn”. Phải chăng là họ thừa hưởng được cái “gen sắc đẹp” của những người phụ nữ tiến cung?

Trở lại câu chuyện của nhà thơ Phạm Văn Bình với bài “Chuyện Tình Buồn”. Trong số nhiều bài thơ của Phạm Văn Bình, nhạc sĩ Phạm Duy có lẽ ưng ý nhất và đã phổ nhạc là bài “12 Tháng Anh Đi” và “Chuyện Tình Buồn”. Đặc biệt, bài “Chuyện Tình Buồn” được xem là một trong những bản tình ca thiệt hay và lãng mạn của nền âm nhạc VNCH trong những năm tháng chiến tranh ác liệt.

Chuyện kể về một thanh niên Phật giáo, yêu một cô gái đẹp Công giáo. Chuyện tình trắc trở vì bị cả hai gia đình chống đối. Rồi chàng xếp bút nghiên theo việc binh đao, nàng lên xe hoa … và thời gian trôi đi, trôi đi để “Năm năm rồi trở lại, một màu tang ngút trời, thương người em năm cũ, đêm goá phụ bên song.” Vì sao? Chồng của chị, một sĩ quan Quân Y, cũng là bạn của chàng, đã tử nạn trong một phi vụ tản thương trực thăng trên chiến trường Pleiku năm 1972.

Bài thơ ra đời ngay sau đó và nhạc sĩ Phạm Duy đã giúp cho bài thơ bay thật xa, thật cao. Tình cảm chân thật và xúc động đã khiến cho lời thơ và bản nhạc đi sâu vào lòng người. Hầu như những người yêu nhau trong thời buổi chinh chiến đều tìm thấy hình ảnh của chính mình trong bài thơ và có thể nói, các bạn thanh niên, sinh viên vào thời đó, nhất là những chàng trai lính chiến, đều có thể “hát nghêu ngao” ít nhất dăm ba câu của bản nhạc “Chuyện Tình Buồn”…

Năm năm rồi không gặp
Từ khi em lấy chồng…
Năm năm rồi đi biệt
Đường xưa chưa lối về…

 


Nhà thơ Phạm Văn Bình và các bạn trong dịp “rửa lon” Thiếu tá Lê Đình Bảo. Chú thích và bút tích của Phạm Văn Bình: Hình chụp nhà thơ Đại uý TQLC Ph.V. Bình năm 1973 (thứ 3 từ trái) trong dịp rữa lon Th.Tá Lê Đình Bảo (thứ 2 từ trái). Thứ tư từ trái là Trung uý Chu Vi Sơn con trai nhà văn Chu Tử.

Lê Đình Bì

Tiểu Sử Phạm Văn Bình (1940 – 2008)

Phạm Văn Bình là người Huế, sinh năm 1940 ở Đông Hà (Quảng Trị), nhưng quê gốc ở Bát Sơn, Lương Điền, Thừa Thiên, nay là xã Lộc Điền, huyện Phú Lộc, tỉnh Thừa Thiên – Huế.

Phạm Văn Bình từng theo học các trường Thánh Tâm và Nguyễn Hoàng ở Quảng Trị, Quốc Học và Đại học Văn Khoa ở Huế và có nhiều thơ được đăng trên các tạp chí thời ấy như Khởi Hành, Văn, Bách Khoa, Ngàn Khơi, Tuổi Ngọc, Tiền Tuyến và Tiền Phong. Phạm Văn Bình dạy môn Việt văn và Sử Địa tại Trường Trung học Bán công Đông Hà từ năm 1963.

Ông có tác phẩm “Lối Xưa Thiên Đường” (tuyển tập truyện ngắn do Tuổi Ngọc xuất bản), “Dòng Sông Trước Mặt” (tuyển tập truyện ngắn viết chung với Song Linh, Trần Văn Phú, Huỳnh Ngọc Toàn), “Chiến Ca Mùa Hè” (tuyển tập thơ viết chung với Phạm Lê Phan).

Chỉ có ba năm được đứng trên bục giảng, ông phải gia nhập quân ngũ để thi hành lệnh động viên vào năm 1966, sau trở thành Sĩ quan Tâm Lý Chiến Sư đoàn Thủy Quân Lục Chiến.

Ngoài mối liên hệ là bạn thân với người anh trai của cô Nguyễn Thị Túy, sinh năm 1945, nhà của Phạm Văn Bình và nhà cô Nguyễn Thị Túy cùng ở trong một con hẻm ở đường Phan Bội Châu, thị trấn Đông Hà. Qua lại giao du, thấy người phụ nữ này có nhan sắc, có học vấn (cô Túy không học ở Đông Hà mà học ở Trung học Bán công Huế), lại biết trang điểm, ăn mặc bắt mắt, nên Phạm Văn Bình đem lòng yêu đương. Hai người yêu nhau, nhiều người ở Đông Hà ngày ấy thấy mối tình của họ rất chi là da diết, quấn quýt không rời. Bình đã nhiều lần tới nhà người tình, chuyện trò thân thiết với cả Mẹ cô. Lắm lúc tưởng chừng như sẽ trở thành chung đôi. Tiếc thay không thành duyên nợ. Chỉ vì khác biệt tín ngưỡng. Trong cơn đau tột cùng, dòng máu thi nhân trổi dậy, Ông để con tim thổn thức qua bài thơ “Chuyện Tình Buồn”.

Cô Túy về làm vợ chàng sĩ quan Quân Y, cùng đạo Thiên Chúa. Chẳng may sau mấy năm thì chồng tử trận, để lại 4 con thơ. Còn Bình cũng kết hôn với cô học trò trẻ đẹp khác. Tuy đôi bên đều lập gia đình riêng, nhưng mỗi khi có dịp về lại Đông Hà, Bình vẫn không quên ghé thăm người tình cũ, lúc nào Ông cũng tỏ ra thân thiết đậm đà với các con cô.

Sau năm 1975, mang cấp Đại Úy, Ông bị tù đày nhiều năm. Khi ra tù thì nghe tin vợ hết còn chờ đợi, đã sớm dẫn dắt đàn con qua Mỹ. Ông thành trắng tay, nhà cửa vợ con không còn, bơ vơ lạc lõng. Cô đơn, buồn bã lang thang, thần trí mất tính lạc quan, chẳng thiết tha làm việc gì, chỉ thích chuyện trò tâm sự suốt ngày với những người bạn trẻ quen biết tình cờ ở quán cà phê, vui chơi với họ, say sưa triền miên.

Trước ngày qua Mỹ, lắm phụ nữ tìm tới để xin theo, nhưng Ông đã quá chán ngán tình đời đen bạc, nên chỉ ra đi một mình, cõi lòng trở thành băng giá sau cuộc tình đầu dang dỡ, rồi người vợ trẻ sớm rủ áo ra đi.

Ở chốn tạm dung, Ông tiếp tục sống đời phất phơ, chẳng màng đua chen danh lợi. Sống trong sự bảo bọc của mấy người con cho đến ngày giả từ nhân thế.

Còn cô Túy cũng tới được vùng đất hứa. Hiện nay đang định cư tại Hoa Kỳ. Phạm Văn Bình mất vào năm 2018.

Nguồn: – Thời Báo – SaiGonNhỏ

Từ trang DĐQGHCUC

Hồ Lê Líu Hồ Líu Sê Sàng - Vũ Trọng Phụng

 

 HỒ SÊ LÍU HỒ LÍU SÊ SÀNG




    Không ai có thể thấy một gia đình thứ hai nữa giống gia đình nhà danh họa Khôi Kỳ. Cứ cái tên của ông chủ cũng đã đủ ngộ nghĩnh rồi, nhưng có bước vào nhà ông này, ta mới thấy nhiều cái lạ. Có thể bảo rằng đối với nhà này, cuộc đời là một trận cười quanh năm.

Bất cứ đến lúc nào, ông còn đứng ngoài thềm ông cũng đã thấy văng vẳng đưa ra những tiếng đàn nguyệt như bổng, như trầm, hoặc tiếng cái nhị Sàigoòng rên rỉ. Nếu vào đến căn phòng làm việc của nhà họa sĩ, thì thật là một sự lạ lắm, nếu ông không thấy vỏ hạt dưa bắn tung tóe đầy sàn, vài cái đĩa còn thừa lác đác mấy miếng bánh khách, giấy bóng vỏ kẹo, hay mấy chai rượu ngọt chỉ còn ít cặn, hay cái áo "cào cào" vài đôi giày mang cá mới của các tiểu thư. ấy là không kể một đống ngổn ngang những sáo với hồ, những đàn với nhị, cái nào cũng đứt giây long phiếm, dựa lảo đảo vào một xó gác, một thành ghế, hoặc may lắm mới được treo cẩn thận trên tường.

Vì rằng Tuyết Nương với Bạch Vân đều là hai cô gái quý của nhà danh hoạ Khôi Kỳ đàn cũng hay, ca lại càng "não" lắm. Thật là những nàng tiên sa cõi thế, răng lóng lánh hơn mặt hoa tai đầm, nước da mịn hơn cả quần lụa trắng, tóc đen lay láy, có màu mun hơn cả khăn nhung.

Chính ra, Khôi Kỳ không có địa vị gì trong nhà, chỉ Tuyết nương và Bạch Vân mới là hai "bà" cầm quyền thay ông chủ.

Ông bố thường dậy từ lúc bà con hàng phố chưa ai nghe bánh Tây nóng, giời rét thì quấn thêm cái chăn dạ, khoác thêm cái áo dạ đã ra ngồi kẻ, đo, vạch, điểm trộn sơn, trộn thuốc để cho bà vợ quý với hai cô gái quý nằm ươn xác chờ đến giờ học buổi sáng được ra chơi. Ông tuy có tài nhưng chưa "ăn thua" gì cả. Ông vẫn còn nghèo lắm nên làm ăn rất chi chăm chỉ, những mong có một ngày kia… Một vài cuộc triển lãm của ông tổ chức với mấy anh em đã hứa cho ông con đường tương lai rực rỡ. Nhưng, vợ với con mà ông phải nai lưng ra nuôi một cách rất vất vả chỉ những bắt ông sắm khăn san, giầy mang cá, cũng khiến ông đủ "lệch nghiệp" rồi.

Bà vợ ông không nhúng tay vào một việc gì cả. Rất đẹp khi mới cưới, rất được nhiều người họ nhà chồng kính yêu chỉ vì cái sắc, bá tước còn tự hào là một người đàn bà đẹp, và, sau là một người đàn bà đẹp từ xưa! Đã là một người thuở xưa rất đẹp, nay bà chán hết mọi sự, chỉ còn biết mùa rét thì trùm chăn ngủ kỹ, nực đến thì gội đầu rồi xõa tóc ra quạt, đọc tiểu thuyết trên một cái võng lúc nào cũng kêu "kĩu ca kĩu kịt" mắc lê khắp gian phòng. Cho nên mỗi khi bà dúng tay vào việc gì thì cả nhà như một xứ nào gặp nạn động đất vậy.

Mua sản phẩm bán chạy nhất

- Con Vân! Cái kéo của tao để đâu rồi thế?… Ơi Tuyết! Cái đê với cuộn chỉ ở hòm mày đã vứt đâu?

Cứ nheo nhéo thế suốt ngày!

Rồi thì, Tuyết cũng như Vân, hai cô ùa nhau mở hòm, mở tủ. Sau một hồi rối rít tìm chìa khóa mới mở được thì chẳng thấy đâu là kim, đâu là đê, đâu là chỉ mà toàn mó phải những đũa, những thìa, những khuy áo, gương cũ, hộp sắt tây, lọ thủy tinh, không biết đứa khỉ nào đã nhét cả vào đấy, và cất đấy để làm gì !…

Cả mọi đồ vật bầy trong nhà cũng có một vẻ kỳ lạ lắm.

Cứ hai, ba tháng lại dọn một lần nên phòng khách cũng như phòng ngủ trông đều có vẻ "chưa bầy xong" hoặc "đến mai xếp dọn" của những nhà mới có việc bận rộn hôm qua. Vả lại, ai hỏi đến cái gì cũng không thấy cả thì còn bày biện cái quái gì? Miễn là ông bố vẫn tìm thấy đủ cái mũ, đôi giầy, bà mè: một cuốn tiểu thuyết Tam Hạ Nam Đường, hai cô con gái: phấn, sáp, khăn nhung. Miễn ra ngoài đường, bà con phải nhầm là nhà có của. Cánh cửa nhỡ hé mở người tò mò đi ngoài phố có thể nhìn trộm thấy cái tủ chè khảm nhưng mặt kính vỡ chửa có tiền thay. Hoặc trên bàn thờ, cái bát nhang sứt vì mèo nhảy đổ.

Có khi, ngồi vào mâm, đã cất đũa, ông bố mới sửng sốt tự trách rằng quên chẳng để dành tiền mua lấy cái liễn ủ cơm. Gặp khi nào hơn hai giờ mà hai cô gái quý mới thổi cơm xong thì chiều đến đã có lệnh của bà truyền rằng: "Mới ăn cơm từ lúc hai giờ chiều không phải thổi cơm, để chờ hàng phở tối".

Một cảnh tượng rất thường nhưng nghĩ cho cùng, thật cảm động: bốn người cùng, kẻ ngồi, người đứng, bưng mấy bát phở vội húp sụt soạt ở ngay chỗ cánh cửa bước vào. Cầm cái khăn mặt bẩn như lau khăn bàn, ông bố húp vội chén nước rồi lại quay vào cắm cổ làm việc, chẳng kịp xỉa răng!

Trong cái cảnh bừa bộn vô trật tự ấy, cái thản nhiên, cái bình tĩnh của bà mẹ với hai cô thì thật là những kỳ công của tạo hoá! Trong óc mấy người này đều chứa những tư tưởng gì khác, chứ không tráng qua một tư tưởng nào về việc tề gia nội trợ bao giờ. Cho nên Tuyết Nương thì ăn vận theo gái Sài Gòn, còn Bạch Vân gái Huế. Còn bà mẹ, nằm chao mình trong võng, sống một cách uể oải với bộ truyện Phong thần mơ màng đến cái sắc đẹp thủa xưa.

Nhà danh họa Khôi Kỳ thì lúc nào cũng hớn hở tươi cười như đứa trẻ con được mặc áo đẹp.

Miễn sao lúc nào cũng được thấy bên tai khanh khách tiếng cười của hai cô con gái quý, ông bố có thể nai lưng ra làm việc, kéo cày trả nợ, nợ vợ, nợ con. Hễ cô con gái nũng nịu, thỏ thẻ bên tai "Cậu cho con mua cái san" (giẩu mỏ!) "Cậu cho con mua cái vòng" v.v... là ông bố gật đầu ngay, móc ví lấy tiền ngay, dù gạo ngày mai chưa trông được vào đâu cũng mặc!...

Cũng lắm khi các cô ngồi cần cù kim chỉ đấy, nhưng áo rách đến xả vai của bố cũng không thấy miếng vá, bít tất của bố thủng như rây bột cũng chẳng được sợi mạng, các cô chỉ biết thêu hàng trăm hàng nghìn những chiếc mùi xoa có cành hồng con bướm, để tặng những ai ai thì phải, chớ cũng không thấy để bán bao giờ.

Các ông, các bà có được hân hạnh lần nào gặp những cô gái quý, rất tân tiến ấy không? Nào có khó gì đâu, biếng việc nhà nhưng chăm chỉ việc người, những cuộc diễn kịch, diễn cải lương Nam Kỳ, việc nghĩa hoặc các buổi chợ phiên, đối với các cô không một dịp nào không dự vào ban tổ chức. Chỉ bởi thế, các cô vẫn phải muộn chồng.

Vì rằng cứ trông cái cảnh gia đình ra ngoài khuôn mẫu hàng nghìn vạn dặm của các cô, cứ nghe giọng bà mẹ của các cô sàn sạt, nheo nhéo cả ngày, thì dù trong đám công tử đã cảm giọng Nam ai, Vọng cổ hoài lang, Văn Thiên Tường của các cô, cũng có nhiều cậu muốn rước ngay các cô về nhưng phần nhiều đều ngại ngần, tự hỏi với tự dọa: "Có nên lấy nó làm người vợ quý của mình?" hoặc là "Nếu ta lấy nó thì rồi ta đến bố mẹ ta!...".

Người tử tế làm ăn, đã không ai dám rúng đến rồi, mà cả cái bọn "mũ lệch vai so" cũng không mãnh nào dám rước. Đã đành là, đến nhà họa sỹ Khôi Kỳ nghe hát, nghe đàn là thú, là vui, là cảm lắm nhưng mấy ông tài tử Nam Kỳ đội mũ đỏ mực, quấn cái khăn quàng sặc sỡ, lê đôi dép Nhật, đàn hay, ca thạo, hút thuốc lá cũng thạo, đối với con mắt bọn này đã như đinh như gai... ấy là không kể trong khi mải vui nghe hát, nghe đàn, bọn này phải chịu cái khổ hình nghe cả tiếng võng kĩu kịt của bà ở phòng bên cạnh, trông thấy thấp thoáng bóng người, những cái vẻ mặt căm tức, giận dữ, định lấy tiền nhà tiền gạo, từ tháng trước thu xếp chưa xong. Các cô vẫn ế.

Được một lần có một anh chàng góa vợ, đứng tuổi, rất thích cảnh đời ra ngoài khuôn mẫu, vì cho sự lấy vợ chỉ là mua máy hát, đã định ngấp nghé (ái chà!...) mượn người tiến dẫn đến năm bảy lượt, nhưng vì thấy cảnh gia đình quá sức mình tưởng tượng nên trong lúc cô em gân cổ ca khúc Văn Thiên Tường trong bản tuồng Tam ban triền điển thì anh chàng lim dim con mắt liếc nhìn cô chị, phì phèo tẩu thuốc lá, nghe điệu đàn rồi vừa hát thầm, hoạ thầm, mà tự hỏi:

"Phải xem nó có ý y còn nguyên, nó còn nguyên..."

Việc chàng lại bỏ dở...

Thế là Bạch Vân với Tuyết Nương vẫn cứ ế chồng, mà họa sĩ Khôi Kỳ được cảnh xum họp một nhà để tiếp khách toàn cầu, để méo mặt lo nợ, lo chạy gạo, chạy tiền bánh ngọt, rượu, chè tiếp rước các ông công tử Bắc Kỳ, tiếp rước các ông tài tử Nam Kỳ, và để lúc nào cũng được bên tai văng vẳng khúc đàn ròn của bài vọng cổ:

Hồ sê líu hồ líu sê sàng!

Vũ Trọng Phụng

1936

 

 

Tuesday, November 25, 2025

Mùa Thu Lỗi Hẹn - Vườn Thơ Mới Xướng Họa

 THƠ XƯỚNG HỌA KỲ 181_VƯỜN THƠ MỚI

 

Xướng:
















Mùa Thu lỗi hẹn

Hiu hắt vườn xưa gọi gió thu
Sớm mai đồi núi phủ sương mù
Hàng cây vàng lá cành xơ xác
Thành phố sương mờ cảnh tịch u
Mây tím hoàng hôn nghe buốt giá
Trời chiều hoàng hạc ngóng trăng lu
Đồi sim mấy độ ta ngồi đợi
Sao nỡ qua đò bỏ bến thu?!!
Nguyễn Cang
Nov. 5, 2025



Họa 1:

Vào thu


Sông buồn man mác nhuộm hơi thu,
Sương phủ không gian, đất tối mù
Khí lạnh giăng đầy, non trắng xóa
Đò chiều thưa thớt, bến âm u.
Hết vương tơ nắng hoàng hôn lịm,
Vừa mở vành cung ánh nguyệt lu.
Về tổ, đàn cò xao xác gọi,
Thuyền ai thơ thẩn đợi trăng thu?
Minh Tâm

 

Họa 2:

 

Trăng Thu

Hằng năm mỗi độ cứ vào thu
Ngày ngắn canh thâu tối mịt mù
Đất khách rừng phong màu lá úa
Không gian khoảnh khắc thấy âm u
Tâm
gởi gắm theo chiều gió
Kỷ niệm phai
mờ ảo ảnh lu
Lữ khách bâng khuâng lòng rộn rã
Đêm về lặng lẽ ngắm trăng thu
Hương Lệ Oanh VA
Nov. 6, 2025


Họa 3:

 

















Cảnh thu

Hoa hồng đơn độc giữa mùa thu
Đỏ thắm xóa tan cảnh mịt mù
Phản chiếu nắng chiều cây sáng chói
Lá vàng che lấp cảnh mù u
Rừng cây trơ trọi cành hiu quạnh
Lấp lánh ánh đèn lúc tỏ lu
Vắng bóng đàn chim kêu ríu rít
Đóa hồng chễm chệ đón trăng thu

PTL 

Nov. 2025


Họa 4:

Dáng thu xưa


Ta về phố nhỏ giữa mùa thu
Lối cũ mây ùn gợn xám mù
Cảnh vắng chiều nghiêng đời vội vã
Sân mờ liễu rũ dáng âm u
Màn đêm phả nhẹ làn hơi ấm
Bóng tối vờn quanh ngọn nến lu
Trở gót buồn thương tình phố cổ
Rừng cây tiễn bước rực vàng thu
TQ
Nov. 2025

 

 

 

 

Về Thả Áo Thu Bay - Nguyễn Đạm Luân

 Về Thả Áo Thu Bay




Con Bé Bán Kẹo Bến Xe Củ Chi - Thuyên Huy

 

Con Bé Bán Kẹo Bến Xe Củ Chi

Chuyện tưởng tượng quá mức của sự tưởng tượng, có thể vô lý nhưng có một người trong chuyện là thật

1.

     Con bé chừng độ năm sáu tuổi, cao cở hơn cái sạp cây, thấp chút xíu so với mấy cái hai bên, tóc ngắn búp bê, mặt mài nhìn từ xa trông sáng sủa, quần áo luộm thuộm nhưng lành lặn, cầm trên tay ba bốn bịch bánh tráng kẹo đậu phộng, đi qua đi lại trước sạp, quanh quẩn vậy, không đi xa hơn, miệng cười cười, đưa lên đưa xuống mời, chưa thấy ai mua, giờ này, trời nóng nhưng chưa đến nổi nóng lắm, gần giữa trưa, bến xe đi về ba ngả, ngả về Phú Giáo Bình Dương, ngả kia đi Đức Hòa, Đức Huệ Hậu Nghĩa, ngả lên Tây Ninh, người lên người xuống, người đi người về đông nghẹt, tài xế lơ xe gọi nhau ơi ới. Hai ba chị, tay bưng tay xách giỏ này giỏ kia, đi ngang, nói gì đó với con bé, làm như quen nó lâu lắm rồi, nó đưa bịch kẹo cho, họ cầm lấy, vò đầu, nó nhận tiền, không đếm, mà thật cũng không biết nó biết đêm hay không, mấy chị bỏ đi, nó nhoẻn miệng cười.




    *

    Ngồi nhìn nó một hồi lâu, trưa thứ Bảy, con bé vẫn còn đứng đó, cái sạp sau lưng nó, chưa thấy người lớn nào, Thuận lấy làm lạ, giờ này là giờ trưa, ít nhiều gì người ta cũng kiếm cái gì ăn, nhất là ở bến xe, vốn đã không thiếu gì cái để ăn, nhiều đám người chờ xe tụm năm tụm ba dưới bóng mát, nói cười ăn uống gì đó, dĩa cơm tấm trên bàn, mãi mê nhìn con bé, thấy thương thương nó làm sao nên dĩa cơm vẫn chưa đụng tới như mọi khi, thiếm tư Lành, chủ quán e ngại, cứ ngó anh ta hoài, bà chắc lưỡi nói thầm “bộ cơm của ổng bữa nay không ngon sao cà”, mặc dù bận lo tính tiền, lo làm đồ ăn cho khách đi chờ xe không hở tay.

    Không lâu sau, có một người đàn bà, trạc cở bốn mươi mấy, tay cầm ba bốn cái bánh ú lớn, đi lại phía sau, ngồi lên cái sạp, lấy khăn quàng cổ lau mặt, nói gì đó, nó hồn nhiên đi vô, trèo lên ngồi kế bên, bà mở bánh, hỏi qua hỏi lại, nó cầm bánh ăn ngon lành, Thuận định hỏi thiếm tư Lành gì đó, nhưng thôi, xong dĩa cơm, như thường ngày, anh cười chào rồi bỏ đi, băng qua bên kia đường, ngay trước cửa văn phòng, hai ba cô giáo quen đi ngang qua cổng, gật đầu chào, Thuận vẫn nhìn con bé, tự dưng thấy lòng mình se thắt buồn nhưng không biết vì sao buồn.

2.

    Gần một tháng, từ Đức Tôn Sa Đéc đổi về Củ Chi, chỗ mới người mới, bận việc đủ thứ, tạm ở trong căn nhà nhỏ sau văn phòng, rồi nhờ chị làm chung giới thiệu, nên Thuận mướn được một căn nhà khá tốt của người chị quen, cách văn phòng chừng vài trăm thước, và ăn cơm tháng, thay vì tính bữa, ở cái quán cơm của thiếm tư Lành, hiền hậu, cởi mở ngay góc ngã ba, ngó qua bên kia chỗ làm, cũng tiện, thay cho những ngày ăn chỗ này chỗ kia, theo kiểu “ăn để mà sống chứ không phải sống để mà ăn”. Nói là cơm tháng nhưng chẳng có tháng nào gọi là tháng, vì công việc Thuận phải đi chỗ này chỗ kia nên có khi hai ba ngày không thấy mặt bữa nào.

*

    Quá xế trưa Chủ Nhật, đầu thu, nói là thu cho có đủ bốn mùa, chứ hôm nào cũng chang chang nóng, nhất là ở bến xe, dù vậy bến xe, chuyến về chuyến đi vẫn đông nghẹt người, vẫn ồn ào, vang vang cả một góc trời. Quán bữa nay, tương đối vắng, thiếm tư cũng tạm rãnh tay, ngồi cạnh bàn ăn, nói cười với Thuận nhiều hơn trước, nhất là về con bé ở sạp bán bánh tráng kẹo, và một số trái cây khác như mảng cầu xiêm, vú sữa. Cả hai cùng nhìn ra bên kia đường, con bé ngồi đó, cười nụ cười con nít, thiếm chậm rãi, cho anh biết, con bé là con nuôi của thiếm bán hàng, mồ côi cha mẹ, thiếm này người Bến Kéo, không thấy chồng, mới về đây, ở đâu đó, trên khúc trên, đường đi Hậu Nghĩa, có cái sạp bán hàng này chừng hơn năm nay, cũng khá thân thiện và vui tính, thương con bé lắm, cũng có khi dẫn con bé qua bên quán mua cơm trưa, con bé rất lễ phép, dạ thưa cám ơn luôn miệng.

*

    Trưa Chủ Nhật sau đó hơn một tuần, cũng trưa trưa, ăn xong, Thuận đi qua bên kia đường, chỗ con bé và cái sạp kẹo, vẫn là cảnh cũ, bến xe vẫn đông nghẹt người như mọi ngày.

    Con bé đứng trước sạp, tay cầm mấy bịch kẹo như những lần anh ta nhìn nó, Thuận đi tới, thấy có người, con bé cười thật tươi “chú mua kẹo đi chú”, anh nhìn bộ dạng mời mọc hồn nhiên của nó, anh thấy càng thương hơn, vừa định hỏi bao nhiêu thì thiếm bán hàng, tự nãy giờ bận đếm mãng cầu trong giỏ tre để sau lưng, quay mặt ra, ngước nhìn lên, cùng lúc hai người buột miệng ngạc nhiên “trời ơi cậu Thuận, trời ơi thiếm Bảy”. Thuận bước vô phía trong, đứng gần bên bà, con bé vẫn tươi cười đi qua đi lại, không cần biết gì. Mọi chuyện từ lâu nay, chắc cũng phải sáu bảy năm, giờ hỏi nhau không biết là bao nhiêu câu, bao nhiêu chuyện, những chuyện cũ, và chuyện Ái Thy, tên con bé.

3.

    Giang, Bằng và Thuận cùng học chung trường, cùng lớp nhưng Bằng và Thuận chung lớp, là đôi bạn khá thân, cả hai học khá giỏi, Bằng nhanh nhẩu, nói nhiều còn Thuận thì ít nói hơn, cái gì cũng được, không làm mất lòng ai. Giang, cô bạn gái, nhà ở chợ Bến Kéo, ba mất sớm, sống với má, có tiệm bán tạp hóa nhỏ, ngay căn phố đầu chợ. Bằng nhà ở tại phố tỉnh, ngay ngã ba sau lưng tòa hành chánh, má anh mất năm lên đệ Lục, ba ở vậy, Bằng có người chị gái nhưng không may chị đã mất năm mười hai tuổi, cho nên anh là con một, gia đình khá giả, nhà Bằng có tiệm bán nông cơ cụ trong chợ Long Hoa, có người chú bà con làm quản gia lo chuyện tiệm, thay ba, phụ nhà anh từ đó đến giờ. Thuận nhà ở tận dưới Trãng Bàng, nghèo, ba làm thư ký cho một nhà máy xay lúa, má lo việc nhà, nghèo nhưng chưa đến nổi túng quẩn, sinh Thuận ra muộn, là con một nên ba má anh cũng khá lớn tuổi rồi.

*

    Bằng và Thuận, chơi với nhau, không sang hèn giỏi dở, nhà tường nhà liếp, cái gì cũng chia sẻ, vui buồn suốt mấy năm cuối trung học, cả hai có tài văn thơ, bích báo trường năm nào cũng do một tay hai người lo liệu, cho nên cả trường nói thì hơi quá nhưng thầy cô, học trò lớp lớn cô cậu đều biết mặt nhớ tên, trong sân trường ngoài đường phố. Trong mấy cô cùng lớp, thường tụm ba tụm năm, hát hò thơ thẩn thì cả hai Thuận và Bằng đều gần gũi với Giang hơn, cô nàng khá đẹp, đẹp mặn mà đẹp thùy mị.

    Bọn họ đi Bến Kéo, nhà Giang hà rầm, má Giang nhớ từng đứa, ngồi trước cửa tiệm tạp hóa riết rồi, cả chợ, không kể bạn hàng, ngay cả người đi chợ cũng quen, nhất là ăn không  biết bao nhiêu chén chè đậu trắng bùi bùi ngọt lịm của quán thiếm Bảy sát bên cạnh, cái tiếng “cậu Thuận cậu Bằng”, thiếm góa chồng như má Giang, có cô con gái lớn tuổi hơn Giang, học không khá, bỏ học cuối năm đệ Thất, phụ thiếm rồi mấy năm sau lấy chồng, về quê chồng cũng lâu lắm rồi dưới Đức Huệ, bà cũng nhớ như in.

    Nửa năm cuối, năm chót trung học, cả ba cũng năm sáu lần đi xe đò xuống nhà Thuận dưới Trãng Bàng, hôm nào cũng ở chơi tới hơn xế trưa rồi về, dưới này nào là đi lòng vòng chợ quận, đi ăn bánh canh nổi tiếng, đón xe lôi vào Tha La xóm đạo, thương cái nhà thờ nghèo có thật trong bài hát Tha La Xóm Đạo mà họ nhớ từng chữ của Dzũng Chinh. Ba má Thuận thương lắm, tiếng bác tiếng mấy con êm dịu hơn tiếng lúa trổ đòng đòng mùa lên trước gió sớm trên đồng.

*

    Chừng không hơn hai tháng nữa, cuối năm, tới mùa thi, Thuận tình cờ gặp cô bạn cùng lớp với Giang ngoài phố chợ đêm, khi lang thang đi mua bánh mì ăn tối, hai người rủ nhau ra bờ sông ngồi ăn chè sâm bổ lượng. Cô nàng cho là anh cũng đã biết, thản nhiên kể chuyện này chuyện nọ của mình và Giang, vui vẻ nói Giang và Bằng thương nhau dữ lắm mà không ai nói ra đâu nhưng bọn họ biết hết từ lâu, rồi hỏi anh một câu chắc nịch “chắc anh Thuận biết rồi, phải hông?”. Cô cười tươi khoan khoái nhìn thiên hạ đi chợ đêm nhưng cô không biết là, Thuận đang chết đứng trong lòng, cũng cười, nhưng cái cười nếu không kịp  cắn môi, kềm lòng thì anh đã bật khóc.

     Mối tình mới nhen nhúm trong lòng của anh chết một cách ngỡ ngàng sau câu nói của cô bạn gái. Thuận thương Giang từ những ngày đầu năm học cuối, ôm lấy riêng mình, chờ một ngày. Muộn rồi, những đêm chong đèn nhớ người, thuộc tên người hơn thuộc công thức bài toán hình học không gian khó. Hai người chia tay, hẹn gặp lại trong trường, cô nàng đi rồi, Thuận vẫn ngồi đó, đèn phố chợ đêm hình như tối đen trước mặt, con sông hiền chia đôi phố ngủ yên bổng nổi sóng như gió cuồng bão rớt, Thuận thầm khóc.

4.

    Cả ba, Giang, Bằng và Thuận đậu Tú Tài Hai cuối mùa thi, xuống Sài Gòn, Giang vào đại học Sư phạm, Bằng vào Phú Thọ, Thuận chúc mừng hai người và một số cô bạn khác, với bữa ăn ở chợ Đũi, rồi chia tay, không cho biết sẽ học gì, chỉ lơ ngơ Văn hay Luật vậy thôi, nhưng lòng mình rối rắm, Thuận cần nơi để tìm quên ngày tháng cũ, tình lỡ rồi nhưng sao cứ ray cứ rứt, lặng lẻ Thuận bỏ lên Đà Lạt vào Chính Trị Kinh Doanh, ở đó Sài Gòn mù xa một chuyện tình, chưa được gọi  là mối tình, chỉ mình biết mà người mình thương không biết.

*

   Ra trường, Bằng về làm Phó Trưởng ty Công Chánh tỉnh nhà, Giang cùng cô bạn thân, người kể chuyện cho Thuận nghe, một chiều muộn chợ tỉnh, về dạy ở trường trung học quận Gò Dầu. Thuận bỏ Đà Lạt về lại Sài Gòn, vào một trường khác, dù vậy trong mấy năm học qua, anh vẫn không gặp lại bạn bè, âm thầm đi về, lặng lẻ, coi như “biệt vô âm tín”. Không lâu sau đó, Bằng và Giang thành hôn, đám cưới tổ chức trên nhà của Bằng, đủ đám bạn cũ nhưng không có Thuận. Giang không phải làm dâu, đi dạy thì ở nhà trọ chung với cô bạn, dưới Gò Dầu, cuối tuần thứ Bảy, Chủ nhật về Bến Kéo, cô bạn về tỉnh, giống như vợ, cuối tuần thì Bằng về Bến Kéo, ai nấy bà con hàng xóm đều khen lấy khen để, vơ chồng này hạnh phúc quá, nhất là thiếm Bảy, quán chè bên cạnh, luôn miệng với má Giang “chị may mắn, sung sướng quá chị Hai ơi”.

    Chừng năm sau, Giang sinh bé gái đầu lòng, xin nghỉ dạy vài tháng lo cho con, đặt tên Ái Thy, con bé tròn trịu, mặt giống mẹ như đúc, ai cũng nói vậy, ông nội chạy lên chạy xuống, trầm trồ suýt soa, bà ngoại cưng như trứng mỏng. Thiếm Bảy thì khỏi nói, bán không lo bán cứ qua bên này, hết nựng tay rồi nựng chân, hai bà thay nhau giành ẳm, vợ chồng cười, cản không nổi.

*

    Năm con bé lên hơn một tuổi mấy, may mắn Giang được đổi về trường tỉnh, nên vợ chồng không phải đi về Bên Kéo như trước, mọi chuyện “xuôi chèo mát mái” những tháng ngày sau đó. Sau tết năm đó, ba của Bằng mất, ông bị bệnh ung thư gan, có lẽ do những năm còn trẻ ông uống rượu nhiều quá, vô bệnh viện tỉnh rồi chuyển xuống bệnh viện Chợ Rẫy cũng không cứu được. Người chú quản gia lo tang lễ mọi thứ, đem ông chôn cạnh mộ bà ở cái nghĩa địa, bên bìa ranh ngoại ô phố tỉnh, trong vòng đất của chùa Gò Kén. Tiệm quán trong Long Hoa và nhà cửa, chú tiếp tục việc làm như trước, chú rất ngay thẳng, trong sạch, khiêm tốn, mọi việc từ tiền bạc tới việc làm đều rõ ràng cho nên Bằng ít khi hỏi han chú, trừ khi chú muốn bảo anh cái gì đó.

*

    Mùa hè năm con bé Ái Thy lên ba tuổi, một hôm, xế trưa, trời có mây, hơi xam xám, từ tiệm ở Long Hoa, Bằng chở vợ trên xe Honda về nhà Bến Kéo, qua ngã ba Giang Tân, cũng như thường ngày, hai vợ chồng cười cười, nói qua nói lại. Gần tới khúc quanh cua rộng, cách chợ không mấy xa, trời có chút âm u, chiếc xe tải chở gỗ như loại chở thường, hai cây dài, lớn như hai cái ống cống, từ dưới bến đò lên, không biết tại sao, vừa băng ngang đường, tiếng máy rú lên dữ dội rồi lật quẹo ngang, đầu xe một bên, phần kéo gỗ một bên, hai cây gỗ dài hơn mười thước sút dây rớt xuống, cũng là lúc vợ chồng Bằng, xe Honda chạy tương đối lẹ, vừa lên tới, một trong hai cây, càn ủi, mạnh, hất xe Honda tung lên cao, vợ chồng Bằng văng ra, đập vào đầu xe, rồi rớt sâu xuống lề đường bên kia, nằm im, người lái xe vận tải, không biết sống chết, người ngã quặp trên ghế trước, bất động.


Người trong chợ, hai bên đường, chạy túa ra, la hét, người dưới bến cũng ùa lên, tay này tay kia, phụ đở vợ chồng Bằng lên, hai người cũng bất động, máu me khắp người, mắt nhắm nghiền, họ vừa khiêng về phía chợ vừa hô to, kêu má Giang “bà hai ơi bà hai ơi”. Tới trước nhà, má Giang chạy ra trước, thiếm Bảy ẳm con bé theo sau, không biết làm gì hơn, chỉ ôm con mà khóc ngất “trời ơi trời ơi”, xe cứu thương không có, ông Ba xe lam, nhà bên kia đường, lái xe chạy lẹ qua, người phụ nhau đưa vợ chồng Bằng lên, bác hai và hai ba người khác theo lên, chở họ lên bệnh viện tỉnh, bác cứ khóc và khóc.

    Dường như định mệnh đã sắp bày, sau hai ngày trong bệnh viện, qua mọi thứ cố gắng đêm ngày,  của bác sĩ, vợ chồng Bằng mất. Một lần nữa, ngưới chú quản gia một tay lo liệu tang lễ, vì bác hai, má Giang đờ đẩn, không còn biết gì nữa cả, cứ ôm con bé mà khóc, thiếm Bảy bỏ bán, an ủi, phụ lo cho bà cho con bé, lo mà cũng như bà, thiếm cũng khóc. Gia đình đem vợ chồng Bằng tới chôn cạnh mộ ba má Bằng ở cái nghĩa địa ngoài chùa Gò Kén.

   *

   Tội nghiệp con bé, không đòi không khóc, cứ vô tư với ngoại với thiếm Bảy, hai người ẳm trên tay mà lòng đau quặn thắt. Vừa thương nhớ con vừa tội tình cho cháu, bác hai trở nên ngớ ngẩn, có khi lờ đờ, lúc cười lúc khóc, chỉ ra sân nhìn trời cao rồi lẩm nhẫm lung tung, bỏ ăn bỏ uống vài ngày sau đám tang, rồi tâm trí bất thường nặng thêm, thường bỏ đi lang thang trên đường, có khi đi không biết đường về, người ta phải dắt lại nhà, nói năng lảm nhảm hơn. Thiếm Bảy ẳm con bé theo, đưa bà lên bệnh viện, sau nhiều lần đi về, bác sĩ kết luận, bà đã bị chấn động tâm lý quá nặng, nên đã bị bệnh tâm thần hay gọn hơn là “điên”.

6.

    Dưỡng trí viện Biên Hòa, sắp trưa, nắng âm ấm trong sân, vắng người, Thuận đi theo cô y tá tới một cái băng ghế cây dài, đặt dưới gốc cây phượng già rợp bóng, ngừng lại cách nơi đó một khoảng không xa bao nhiêu, cô chỉ người đàn bà, tóc lâm râm bạc, quần áo thẳng thốn, đang nhìn lên trời, gật gù nói lảm nhảm. Thuận cám ơn, cô cho biết nếu cần gì cứ gọi cô, chào anh ta rồi quay lưng bỏ đi.

   Thuận đi tới gần bà, đúng là bác hai, má của Giang, anh cúi đầu chào, bà không nhìn cứ tiếp tục nói, tiếng mất tiếng còn “con tôi, cháu tôi, con tôi, cháu tôi sao không có đứa nào vậy bây”, nói mà cười cười, hai bàn tay vẫy vẫy, đôi mắt buồn u uẩn, Thuận lên tiếng gọi “bác hai, con thằng Thuận đây”, bà ngồi xuống nhìn anh ta trân trân “thôi tao hổng ăn cơm, tao nói tao hổng đói mà”.  

    Đinh là sẽ ở lâu nhưng cũng đành vì không làm sao khác hơn được nữa, Thuận, một lần nữa cúi đầu chào bà, bà cười như đã cười như lúc nãy, anh lùi bước, bất chợt nảo lòng, mắt cây xé, anh quay đi trở lại văn phòng cũng vừa lúc cô y tá khi nãy đi tới, nhin anh lắc đầu thông cảm “tới giờ cho bà uống thuốc”, Thuận cám ơn rồi bỏ đi, nhưng cứ nhìn lại, bóng cô y tá dắt tay bà, xa dần rồi xa dần trong tầm mắt, anh lắc đầu, thở dài. Ra khỏi cổng Dưỡng trí viện rồi, anh vẫn đứng ngoài rào nhìn lại.

7.

   Biết rành Thuận là ai, đang làm việc gì nên thiếm Bảy, ngồi nói chuyện, tuy cứ do dự, đắn đo, suy đi nghĩ lại, thêm một phần là cô con gái thiếm cũng đã dọn về ở ngã ba Củ Chi, ở chung với thiếm Bảy, tuy nhiên vợ chồng họ vẫn đời làm thuê làm mướn, nghèo nhưng tạm đủ ăn, căn nhà mà thiếm đang ở miếng tôn vách ván, miếng hở miếng lành, phần khác có thiếm tư Lành, chủ quán cơm, nói thêm nói vô, tại bữa cơm trưa ở quán, thiếm Bảy buồn buồn, dù sao ba năm rồi nuôi nấng con bé cũng mến tay mến chân, vắng nó thương đứt ruột nhưng thôi cũng đành, ở với thiếm không khá hơn, chẳng lẽ đời nó cứ như vậy sao, về với Thuận, có ông có bà, đi học đi hành, thì còn gì hơn.

    Cuối cùng, thiếm gật đầu bằng lòng để nó về với Thuận mà mắt đỏ hoe, bùi ngùi ngấn lệ. Chuyện xong rồi, thiếm đi qua bên đường xa rồi, Thuận nhìn theo, tới sạp trái cây, thiếm ôm con bé vào lòng, kêu nó lên ngồi kế bên, nói gì với nó, một hồi lâu, không biết có hiểu gì không, nó chỉ cười, Thuận bổng thấy trong lòng đau nhói.

8.

    Con bé Ái Thy, tung tăng nắm tay Thuận, có ông bà nội nuôi theo sau, tay cầm cái cặp da mới tinh, quần thơm áo mới, nói cười luôn miệng, lắc tay Thuận chỉ cái này cái kia hai bên đường, trắng bông hoa Gạo, khoe màu với những cánh phượng hồng tươi mùa hạ trước sân trường, “một ba ơi, hai ba ơi”.




    Hôm nay ngày tựu trường, sân trường tiểu học quận rộn rã tiếng người lớn tiếng trẻ con và cũng hôm nay Ái Thy đi học.

 

Thuyên Huy

Sắp vào hạ 2025