Đã Ba Năm Mình Không Có
Tết
1.
Buổi tối, sau khi cho con ngủ, Hoa nói với tôi, giọng ái ngại:
– Con bé gầy quá. Nó bị suy dinh dưỡng. Chắc anh
phải tìm việc làm thêm để có thêm tiền bạc lo cho con.Buổi tối, sau khi cho con ngủ, Hoa nói với tôi, giọng ái ngại:
Việc gì bây giờ? Lâu nay tôi đã nghĩ đến chuyện này
nhưng chẳng biết phải làm gì. Có dạo, một người quen tốt bụng ở Chi Rông cho
tôi mượn miếng đất ruộng để làm. Kinh nghiệm không có, làm thử một mùa, số lúa
thu về còn ít hơn số lúa giống đã gieo xuống ruộng. Người ê ẩm vì không quen
công việc đồng áng, mất thời gian, còn bị lỗ vốn, đành phải trả miếng đất lại
cho chủ nhân của nó. Buôn bán thì bị ngăn sông cấm chợ, chỉ có người già mới
được cấp giấy phép. Một số đồng nghiệp dạy cùng trường làm thêm bằng cách sửa
xe đạp, sửa giày, sửa đồng hồ, bơm mực bút bi, bơm quẹt ga, làm thú y…Còn tôi,
vẫn bế tắc.
Tôi nhìn đứa con ba tuổi đang ngây thơ nằm ngủ trên giuờng, rồi nhìn Hoa:
– Lần này thì anh phải tìm cho ra việc để mà làm.
Thấy con như thế này anh xót quá.Tôi nhìn đứa con ba tuổi đang ngây thơ nằm ngủ trên giuờng, rồi nhìn Hoa:
Cuối tuần, tôi về Đà Lạt tìm gặp Hữu, một người bạn
rất thân, đang là phóng viên của một tờ báo ở địa phương. Hữu cũng xơ xác như
tôi, nhưng khi nghe chuyện tôi muốn có thêm việc làm, anh trầm ngâm suy nghĩ.
Bất chợt, Hữu cười thật tươi:
– Tôi nghĩ ra rồi. Hình như anh có một chiếc máy
ảnh phải không?
Tôi không hiểu vì sao Hữu hỏi tôi như vậy. Sau
1975, cuộc sống quá khó khăn, tôi phải bán đi nhiều thứ, nhưng chiếc máy ảnh
thì tôi vẫn còn giữ lại. Ngoài chiếc máy ảnh, tài sản của tôi còn có một máy
đánh chữ, một chiếc xe đạp, và mấy chỉ vàng do bà con tặng hồi đám cưới. Chỉ có
vậy thôi. Nhà cửa không có, đang ở nhờ.
Tôi nói với Hữu:
– Có. Tôi vẫn còn giữ chiếc máy ảnh.
Hữu vỗ vai tôi:
– Yên tâm. Chắc chắn có việc làm. Tôi sẽ giới thiệu
anh cho ông Nguyễn Bá Mậu để học nghề chụp ảnh. Học xong, anh sẽ chụp ảnh dạo
và ảnh đám cưới để kiếm thêm tiền. Tuần sau anh lên, tôi sẽ đưa anh đến gặp ông
ấy.
Tôi mừng lắm. Nghề này chắc chắn phải hợp với tôi
hơn là làm ruộng. Về nhà tôi kể chuyện cho Hoa nghe và Hoa cũng rất lạc quan
với chút ánh sáng đang lóe lên trong cuộc sống u ám của chúng tôi. Tôi lấy
chiếc máy ảnh hiệu Canon lau chùi cẩn thận, nhủ lòng sẽ cố gắng để vượt qua số
phận. Cả thị trấn này, số người có máy ảnh chỉ đếm trên đầu hai bàn tay. Rất ít
người biết chụp ảnh. Muốn chụp ảnh phải học cách sử dụng máy ảnh. Ảnh sẽ mờ tịt
nếu không biết điều chỉnh khoảng cách, sẽ trắng bệt nếu thừa ánh sáng, hoặc sẽ
đen thui nếu thiếu ánh sáng. Tôi đã có dịp đọc qua các sách dạy chụp ảnh nên
cũng hiểu biết chút ít.
Cuối tuần sau đó, Hữu đưa tôi đến gặp nhiếp ảnh gia
Nguyễn Bá Mậu. Từ lâu tôi đã nghe tiếng ông: một trong những nhiếp ảnh gia nổi
tiếng ở miền nam trước 1975, cùng thời với Nguyễn Cao Đàm, Trần Cao Lĩnh. Tầm
sư học đạo mà gặp được ông thì quả là gặp đúng sư phụ rồi. Tôi mang theo chiếc
máy ảnh, trong lòng hơi lo, không biết ông có sẵn sàng truyền nghề hay không.
Nhà ông nằm cuối dốc Sông Lô, gần rạp chiếu bóng
Ngọc Hiệp ở đường Phan Đình Phùng. Nhà bài trí nghệ thuật, gọn gàng, ngăn nắp.
Trái với những lo âu của tôi, nhiếp ảnh gia Nguyễn Bá Mậu là một người cởi mở,
vui vẻ, lịch sự, nhanh nhẹn, và đặc biệt ông có cách nói chuyện rất nhẹ nhàng,
dễ gây cảm tình với người được ông tiếp chuyện. Sau khi nghe Hữu giới thiệu và
nói ý định của tôi, ông vui vẻ nhận lời:
– Tưởng ai chứ bạn của Hữu thì xem người nhà. Mình
có thể bắt đầu ngay bây giờ.
Rồi ông nói đùa:
– Thợ chụp hình là ngưới có nhiều quyền lực. Khách
hàng của chú, từ quan đến dân, ai cũng phải nghe chú. Chú bảo người ta lui ra
sau hay bước tới trước, nhích sang bên phải hay bên trái là họ răm rắp làm
theo. Nhưng coi chừng chú bị đau tim vì chú sẽ gặp rất nhiều người đẹp.
Ngay sau đó ông hướng dẫn cho tôi những hiểu biết
căn bản về chiếc máy ảnh, cách điều chỉnh ánh sáng, khoảng cách, tốc độ, cách
cầm máy ảnh sao cho không bị rung, cho phép tôi chụp thử vài tấm ảnh trong nhà,
ngoài trời; vào phòng tối rửa ảnh, dựa vào đó ông phân tích những lỗi cần phải
tránh.
Cứ cuối tuần tôi lại lên gặp ông. Ông tiếp tục
hướng dẫn về bố cục một tấm ảnh: phần không gian trên đầu phải nhiều hơn dưới
chân, phần không gian trước mặt phải rộng hơn sau lưng, không được chụp cắt
ngang người ở đùi, ở đầu gối, ở cổ chân, không để khách hàng đứng phía trước
gốc cây mà phải đứng tựa vào một bên, người mập không mên chụp gần, người ốm
không nên chụp xa, chụp thế nào để một người lùn trông cao hơn trong ảnh…Dạo
trước tôi cũng thường chụp ảnh cho bạn bè và gia đình, bây giờ, qua những gì
ông hướng dẫn, nhìn lại thấy mình mắc nhiều lỗi kỹ thuật mà mình không biết.
Phần cuối cùng, ông hướng dẫn tôi chụp ảnh nghệ
thuật: chụp hoa, tĩnh vật, chụp silhouette, chụp ảnh chân dung xóa phông đằng
sau, chụp người hoặc vật đang di chuyển, chụp ảnh thể thao, chụp ảnh vào ban
đêm… Đây là phần khó nhất, không học không thể biết cách chụp. Tôi rất thích
phần này, tự nhủ, nếu không kiếm ra tiền thì ít nhất cũng có những hiểu biết về
nhiếp ảnh để áp dụng cho đời sống riêng của mình.
Rồi tới ngày sư phụ cho tôi xuống núi. Ông hẹn gặp
tôi thêm một lần ở nhà ông vào một buổi sáng chủ nhật.Trên bàn nơi phòng khách,
ông đã chuẩn bị sẵn hai ly cà phê, bên cạnh có một túi da dùng để đựng máy
hình. Ông dặn dò tôi về việc luôn luôn phải làm vui lòng khách hàng, đừng nóng
tính, và khi họ cần đến mình thì cho dù phải đi mười cây số để chỉ chụp một tấm
hình vẫn cứ phải đi.
Tôi nói:
– Rất cám ơn anh về sự tận tình chỉ dẫn lâu nay.
Anh vui lòng cho em gửi cái này.
Vừa nói tôi vừa đặt chiếc nhẫn một chỉ vàng lên bàn
với ý định gửi ông chút thù lao.
Ông khoát tay, không nhận. Tôi nài nỉ thế nào ông
vẫn từ chối. Ông cầm chiếc túi da trên bàn đưa cho tôi kèm theo nụ cười đôn
hậu:
– Từ trước tới giờ tôi chưa lấy thù lao của ai về
việc này. Giúp chú chút kinh nghiệm thôi mà, có gì lớn lao đâu. Cuộc sống giáo
chức bây giờ khó khăn lắm. Chú chịu khó làm thêm để có thêm thu nhập. Có chiếc
túi da này, cũ nhưng còn tốt, tôi tặng chú để khi đi làm nghề cho nó có vẻ
chuyên nghiệp. Lúc này thứ gì cũng khan hiếm, muốn mua một cái túi da như thế
này, cho dù có tiền cũng không mua đâu ra.
Thật là ngoài sức tưởng tượng của tôi. Đã không
nhận thù lao, lại còn tặng vật dụng hành nghề. Tôi đã may mắn gặp được một con
người tử tế và nhân hậu. Tôi đã học được ở ông không chỉ nghề ảnh mà cả cách
sống ở đời.
2.
Cả thị trấn tôi đang sống chỉ có hai tiệm chụp hình với số thợ hình khoảng năm người. Họ thuộc nhóm thợ quốc doanh, còn tôi thuộc dạng “chụp hình chui”. Tiền dạy học không đủ sống, “đói thì đầu gối phải bò”. Đầu gối tôi bắt đầu bò. Tôi nhận chụp ảnh đám cưới vào những ngày cuối tuần. Dần dần, khi đã có chút uy tín, khách hàng tìm tới tôi nhiều hơn. Ngoài giờ dạy, soạn bài, chấm bài, tôi tận dụng số thời gian còn lại để đi chụp hình. Tôi làm việc bảy ngày một tuần và hoàn toàn không có thời gian để giải trí. Làm nhiều như vậy nhưng cuộc sống vẫn không khá lên được vì thu nhập từ nghề hình cũng chỉ dừng ở mức “có còn hơn không”.
Đời sống vùng kinh tế mới rất khó khăn. Trong tính
toán của họ, họ chỉ đủ tiền để chụp một tấm thôi. Nhớ lời sư phụ dặn, “Khi
họ cần đến mình thì cho dù phải đi mười cây số để chỉ chụp một tấm hình vẫn cứ
phải đi “. Và tôi làm đúng theo lời sư phụ. Năm giờ sáng lọc cọc đạp
xe vào chỗ hẹn. Đến nơi, họ đã sẵn sàng với một đại gia đình trên dưới mười
người. Trời chưa sáng hẳn, ánh sáng ngoài trời còn yếu, chưa đủ để làm cho ảnh
rõ và sắc nét. Tôi hình dung việc chụp tấm hình này là một việc quan trọng đối
với họ, không cho phép chụp hỏng hoặc xấu, do vậy tôi phải chụp đến ba lần để
chắc ăn sẽ có một tấm khá nhất giao cho họ. Nào ngờ, chủ gia đình nổi nóng, xài
xể tôi một trận:
– Tôi đã nói chỉ chụp một tấm, bây giờ chú chụp đến
ba tấm, tôi lấy tiền đâu mà trả.
Lỗ công, lỗ vốn, lại còn bị xài xể, tôi hơi tức
nhưng tôi không giận vì chẳng qua là họ hiểu lầm. Trước cơn thịnh nộ của người
chủ nhà tôi chỉ biết chịu trận. Đợi ông dứt trận lôi đình tôi mới ôn tồn giải
thích. Mấy ngày sau tôi lại lọc cọc đạp xe vào giao tấm hình, vừa đi vừa nhủ
lòng, “Xem như làm từ thiện”. Cũng may tấm hình khá đẹp, nếu không, chưa
biết chuyện gì xảy ra.
Cũng ở vùng kinh tế mới này, một hôm tôi đang chụp
ảnh cho một đám cưới thì hai cậu du kích xuất hiện. Họ cho người vào gọi tôi
ra.
Tôi không biết họ là ai, nhưng thấy họ có mang súng
nên sợ. Tôi bước ra, cố gắng nở một nụ cười xã giao.
Một cậu, mặt non choẹt đáng tuổi học trò tôi, hạch
hỏi:
– Anh có giấy phép chụp hình không?
Tôi vã lã:
– Khó khăn quá. Làm thêm một chút thôi mà, chưa kịp
xin giấy phép.
Được thể, cậu ta càng lên gân:
– Không có giấy phép thì không được chụp. Anh mà
tiếp tục chúng tôi sẽ thu máy ảnh.
Nghe ba chữ “thu máy ảnh” tôi hơi ngán. “Thu
máy ảnh” đồng nghĩa với “thu cái cần câu cơm” của tôi trong lúc
này. Tôi vội vàng bỏ máy ảnh và đèn flash vào trong túi da, lùi ra xa theo phản
ứng tự nhiên, chưa phải biết tính thế nào thì cô dâu chú rể bắt đầu năn nì:
– Mấy anh thông cảm. Không cho chụp thì chúng tôi
không có ảnh cưới. Một đời có một lần mà không có ảnh thì biết làm sao đây.
– Không có thông cảm gì hết. Đi kiếm thợ ảnh khác
vào chụp.
– Làm sao kịp. Tìm được người khác vào tới đây thì
đám cưới xong rồi.
Vừa lúc ấy có một người đàn ông trạc 30 tuổi dừng
xe đạp nơi chỗ hai cậu du kích. Họ thì thầm với nhau một hồi lâu , sau đó người
này bước tới chỗ tôi, nghiêm giọng:
– Tha cho anh lần này. Lần sau không được vào đây.
Nói xong cả bọn bỏ đi.
Sau lần đó, tôi không nhận chụp ảnh đám cưới cho
vùng kinh tế mới này nữa, kiếm các địa bàn khác để “làm ăn”
Tôi chỉ chụp ảnh, còn rửa ảnh thì không vì không có
phòng tối. Chụp xong, tôi phải mang về Đà Lạt đưa cho các phòng tối trên đó
tráng phim và in ảnh. Khổ nhất là những lần khách cần ảnh gấp, đám cưới hôm nay
họ muốn lấy ảnh vào ngày mai để kịp đưa cho bà con ở xa về dự tiệc cưới. Phương
tiện vận chuyển thiếu thốn, muốn mua một vé xe đò về Đà Lạt phải xếp hàng chờ
đến hai ba tiếng đồng hồ, nhiều khi tới phiên mình thì hết vé. Có một lần mua
được vé đi nhưng không mua được vé về, đành phải đi bộ trên 30 cây số để về
nhà.
Sau này, gặp những trường hợp khách cần ảnh gấp như
vậy tôi đi xe đạp về Đà Lạt. Lượt đi mất bốn tiếng vì đoạn lên đèo Prenn không
không đạp nổi, phải dắt xe đi bộ. Lên tới nơi, đến ngay phòng tối giao phim,
sáng sớm hôm sau trở lại lấy ảnh, và đạp xe trở về. Lượt về chỉ mất một tiếng
rưỡi, nhưng rất nguy hiểm khi xuống đèo. Để chuẩn bị cho những lần đổ đèo, tôi
phải tháo bỏ hai cái garde-boues, chỉ còn hai bánh xe trơ trọi,
khoèo một chân vào chỗ bánh xe trước để làm giảm tốc độ khi xe xuống đèo. Một
lần tôi hụt chân, bổ nhào xuống đất, lăn ra giữa đường, chiếc xe đạp văng ra
xa, còn cặp kính cận may mắn rớt vào vạt cỏ bên vệ đường, không bể. Người tôi
chỉ bị xây xát nhẹ.
Sau lần đó, tôi bắt đầu sợ. Tôi không nhận chụp
những đám cưới cần ảnh gấp như vậy nữa.
Dần dần, thợ “chụp hình chui” xuất hiện thêm
mấy người nữa. Sự xuất hiện của họ ít nhiều có ảnh hưởng đến các thợ hình khác
vì số khách hàng bị chia bớt đi. Các thợ hình quốc doanh bắt đầu tìm cách gây
khó khăn. Họ báo cho công an, đề nghị công an cần phải dẹp cái đám “chụp
hình chui” này. Trong số các thợ hình quốc doanh, có một tay rất hung hăng,
tên là Lung, tìm cách bám sát chúng tôi. Có lần gặp tôi, hắn hù dọa:
– Tao sẽ cho bọn mày dẹp tiệm.
Tôi tức cười quá, nói luôn:
– Có tiệm đâu mà dẹp.
Mặt hắn hầm hầm:
– Rồi bọn mày sẽ biết tay tao.
Gần nhà tôi có một ngôi chùa. Những ngày Tết, rất
đông người đến chùa thắp nhang, lạy Phật, xin xăm, cầu lộc, cầu duyên…Đây là
nơi “làm ăn” của tôi và nhiều thợ hình khác vào dịp Tết. Đây cũng là dịp
đám thợ quốc doanh và đám “chụp hình chui” đối mặt với nhau. Vừa chụp
hình cho khách, vừa phải dè chừng đám thợ quốc doanh xem họ có gây khó khăn gì
cho mình hay không. Sự cạnh tranh tất nhiên phải có, không công khai nhưng ngấm
ngầm và quyết liệt. Suốt những ngày Tết, từ mồng một đến mùng năm, tôi làm việc
không ngơi nghỉ, mệt rã người vì cả ngày chụp hình liên tục, tối lại phải thức
để phụ với phòng tối làm ảnh. Hoa thì lúc nào cũng ở bên tôi giúp giao hình cho
khách. Tôi “làm ăn” ở chùa này tổng cộng ba cái Tết. Hai cái Tết đầu yên
ổn, không có chuyện gì xảy ra. Đến cái Tết thứ ba thì gặp rắc rối.
Hôm đó là mồng ba Tết, khoảng giữa trưa -giờ cao
điểm bà con đến thắp nhang lạy Phật, rải rác trước và sau chùa có khoảng 8 thợ
chụp hình đang phục vụ cho khách. Tôi thuộc nhóm thợ đông khách. Một vài thợ ế
ẩm, khách thưa thớt. Tôi đang chụp ảnh cho một gia đình phía sau chùa thì bà
Chín, một người làm công quả thường xuyên ở chùa, đi ngang qua chỗ tôi, ché tai
nói nhỏ:
– Chụp xong nhóm này, thầy ra đằng sau nhà khách
gặp tôi. Có chuyện này hơi gấp, muốn nói với thầy.
Tôi hơi ngạc mhiên, chụp nhanh cho xong rồi ra đằng
sau nhà khách.
Bà Chín đã chờ sẵn, nét mặt có vẻ nghiêm trọng:
– Hồi nãy có ba thanh niên trông rất du côn bàn kế
hoạch hành hung thầy. Thầy đừng ra sau chùa vì bọn nó chờ thầy ở đó, giả làm
khách chụp hình, rồi kiếm cớ đánh thầy, đập máy ảnh. Tôi đoán bọn này là tay
chân của mấy anh thợ ế khách. Từ giờ đến chiều thầy chỉ chụp trước chùa. Phía
trước chùa lúc nào cũng đông người, chúng nó không dám làm gì thầy đâu.Tôi cám ơn bà Chín rồi đi tìm Hoa, kể cho Hoa nghe mọi việc, và dặn Hoa đứng gần theo dõi, có dấu hiệu gì bất thường thì báo cho tôi biết, còn tôi thì vẫn tiếp tục công việc của mình. Một số khách nài nỉ tôi ra sau chùa chụp ảnh cho họ vì phía ấy có nhiều cảnh đẹp nhưng tôi lấy cớ không đủ thời gian và cứ bám chặt phía trước chùa.
Khoảng ba giờ chiều, Hoa và tôi ghé vào chỗ bóng mát dưới một gốc cây để nghỉ ngơi một chút. Hoa đang lột mấy trái quít cho tôi ăn đỡ khát thì có một nhóm thanh niên tóc dài, áo phanh ngực bước tới. Bọn chúng có ba người. Đúng là nhóm du côn mà bà Chín đã báo động với tôi. Có lẽ chúng chờ phía sau chùa quá lâu mà không thấy tôi ra nên tìm đến đây. Tôi hơi chột dạ nhưng không sợ vì xung quanh tôi vẫn còn rất đông người. Theo phản ứng tự nhiên, tôi vừa định cho máy ảnh vào túi da thì một người trong bọn họ hắng giọng khiêu khích:
– Máy ảnh hiệu Canon hả? Máy này mà chụp cái gì?
Coi chừng chụp xong không có ảnh đấy.
Người thứ hai nỏi trổng:
– Chiều rồi, chụp gì nữa. Đi về đi.
Người thứ ba giọng có vẻ đe dọa:
– Mai đừng đến đây nữa nhé. Đến là có chuyện đấy.
Nói xong, cả ba cười hô hố bỏ đi.
Đợi chúng đi thật xa và đoán chắc chúng không trở
lại tôi mới thở phào nhẹ nhòm, nhìn vào khuôn mặt bơ phờ của Hoa:
– Em còn nhớ mình bắt đàu làm nghề chụp hình từ năm
nào không?
– Nhớ chứ anh. Từ 1979, khi con mình được 3 tuổi.
– Mới đó mà đã ba năm. Đã ba năm mình không có Tết
mà con thì vẫn chưa hết suy dinh dưỡng. Còn anh, chắc anh sẽ suy nhược thần
kinh mất thôi.
(Truyện thật của tác giả)
No comments:
Post a Comment