Bỏ Đất Ngậm Ngùi Đi Với
Biển
Linh quơ vội đống giấy tờ ngổn ngang trên bàn, nhìn chị Trâm:
-Chị chưa đi, định tìm em sao không vào?
Chị Trâm thong thả:
-Thấy em bận rộn họp hành cho nên chị không muốn làm phiền.
-Đâu có họp hành gì chị, mấy người trên Thành Ủy xuống hỏi em
về tình hình công nhân ra sao đấy mà, chẳng có gì khẩn trương cả.
Linh ngồi xuống ghế, tiếp tục hỏi:
-Chị có cần gì em giúp không?
Chị Trâm kéo cái ghế trống bên cạnh cửa sổ ngó ra sân, trời
có vẻ nắng gắt quá, hơi nóng bốc hừng hực trên đường nhựa, hàng Tường Vi quanh
rào gạch chỉ toàn lá với lá, dãy quán ăn bên kia đường ồn ào người vô người ra.
Cái trạm gát kiểm soát người đi xe đò trước khi vào thành phố cũng còn như ngày
xưa nhưng mất rồi những người quen năm cũ. Chị Trâm chợt lặng thinh không biết
nói gì. Thấy chị im lặng, Linh lại lên tiếng:
-Tới giờ nghỉ ăn trưa rồi, hay là chị em mình qua bên kia đường
kiếm cái gì ăn, hôm nay em không có mang cơm theo.
Chị Trâm gật đầu, theo Linh đi ra ngoài.
Sau bữa ăn, chị
Trâm không ngờ là Linh cũng đi theo lên Bà Điểm dự đám ma ba của Phong, sau khi
chị xin nghỉ sớm vì chuyện này. Gia đình anh Huân vốn là bạn cũ, anh trước là
Thiếu Tá, trưởng phòng ba của tiểu khu Phước Long, nhà ở phía trước hồ tắm Nguyễn
Văn Thoại. Phong là đứa con trai lớn, học sinh xuất sắc của trường Petrus-Ký, đậu
tú tài hai hạng bình, nhưng không được vào đại học vì một lý do hết sức đơn giản,
cái sơ yếu lý lịch gia đình ngụy quân do chính quyền phường phê. Anh Huân bị bắt
đi tù cải tạo, đày ra Bắc ngay những ngày đầu, chị cùng đám con dắt díu nhau bỏ
về Bà Điểm, tá túc với bà ngoại, sau khi căn nhà anh chị bị tịch thu trong đợt
đánh tư sản mại bản của chính quyền thành phố mang tên mới “Hồ chí Minh”. Chị
Trâm đưa Phong vào hảng dệt, làm công nhân trong khu sửa chữa, sau lần đến thăm
chị và mấy đứa con. Lần cuối ra Bắc thăm chồng cũng là lần anh Huân được nhà tù
tha về vì cái bệnh ung thư gan, nó đã làm anh chết đi sống lại mấy lần trên trại
rừng âm u Lào Kai Yên Bái. Về nhà không lâu, anh Huân còm cỏi gồng gánh nồi nêu
lên vùng kinh tế mới Bù Đăng theo đúng chính sách khoan hồng của nhà nước. Chị
Huân lầm than đi về nuôi chồng từ đó. Cuối cùng anh Huân chết lẻ loi trong một
sáng mưa dầm tầm tã vì không chịu nổi sự hành hạ tàn bạo của cái bệnh ngặt
nghèo. Chị xin phép xã quận đem xác anh về chôn ở Bà Điểm. Phong sụt sùi báo
tin và xin phép chị nghỉ vài ngày làm đám tang. Chị Trâm nắm tay nó ngồi gục
trong góc phòng vắng, hai cô cháu nhìn nhau khóc sướt mướt.
Đám tang anh Huân
chẳng có mấy người đưa, hai ba người bạn cùng làm hảng dệt vừa về nhà sau ca
đêm, năm sáu ông bà chòm xóm, thế thôi, không kèn không trống, không nhạc quân
hành và không khúc ngâm chiêu hồn tử sĩ. Cái quan tài bằng gỗ vụn chấp nối thiếu
trước hụt sau, lặng lẽ chìm sâu dưới huyệt. Phong rải mấy nhánh hoa Huệ trắng
cùng vài nắm đất xuống mồ lặng thinh, chị Huân cùng mấy đứa con gái nhỏ khóc rấm
rứt, tiếng mất tiếng còn. Bác gái ngồi chết trân dưới bóng cây. Nghĩa địa không
một ai, hình như ma quái ở đây chưa kịp về đón bạn. Chị Trâm ôm chầm lấy chị
Huân và mấy đứa con, thấy môi mình như biển mặn. Linh đứng gần đó nhìn, không
ai buồn nói với cô ta một tiếng, ngay cả chị Trâm. Linh quay mặt đi đôi lần,
phía bên kia đó vẫn còn có mặt trời.
Mẹ con dắt dìu nhau
trở lại nhà, nấm mồ cao chưa bằng ngọn cỏ tranh lần khuất sau lưng. Chị Huân
cám ơn sự có mặt của Linh trước khi hai người ra về. Ra đến đầu quốc lộ, chị
Trâm vẫn còn thấy lòng mình tan tác, không biết Linh có hiều được nổi lòng chị
không, cô ta buồn buồn lặng thinh trên đường. Chị Trâm đưa Linh về đến nhà thì
trời cũng vừa sẩm tối, anh Mẫn, chồng chị đi dạy thêm toán tư cho mấy đứa con
cán bộ lớn, dưới cư xá Hai bà Trưng vẫn chưa về, nhà tối om trước sau như mực.
Sau đám tang anh
Huân, vợ chồng chị Trâm lên Bà Điểm thăm viếng, an ủi chị Huân cùng gia đình
đôi ba lần rồi thôi vì quá bận rộn kiếm sống. Vật giá, đồ đạc, cái gì trong thời
buổi này mọi thứ đều mắc mỏ. Số tiền lương của hai vợ chồng cho một gia đình với
hai đứa nhỏ chẳng thấm vào đâu, may mà anh Mẫn còn được có chỗ dạy tư, tuy vậy
anh chị nhất quyết không bỏ chuyện vượt biên. Có dư chút xíu nào thì mua lấy
mua để mấy chỉ vàng, cất dấu kỹ càng chỗ này chỗ khác trong nhà chờ khi hữu sự.
Hảng dệt mấy ngày gần đây chợt dưng xôn xao trong ngoài vì năm sáu người công
nhân bên khu bốc dở đã bỏ đi và đã đến Mã Lai. Trong mấy buổi sáng họp giao
ban, Linh không nói tới gì chuyện này nhưng có lần cũng đã hỏi chị Trâm, tại
sao lại phải bỏ đi, mà không dùng danh từ phản động, ôm chân đế quốc để gọi họ.
Chị Trâm giả vờ không để ý ba cái chuyện này khi gặp Linh. Chi bộ đảng ủy hảng
dệt Vinatexco cho họp toàn thể công nhân lại, học tập chính sách đảng và nhà nước
hai hôm liền về việc này, đe dọa ai không chấp hành tốt sẽ bị trừng trị, trong
số những người của chi bộ, ông ba Bưng, bí thư chi bộ có vẻ hung hăng lớn tiếng
nhất, thật ra, thì cũng lập đi lập lại mấy câu mà mấy ông cấp thành phố nói
thôi. Ông ba Bưng, cũng gốc người miền Bắc nhưng hình như không ưa Linh lắm,
ông nằm vùng ở đây lâu rồi nên thường hay coi Linh không biết gì, trước mặt thì
vâng vâng nhưng lúc nào cũng tìm cách bắt bẻ Linh mặc dù cô ta là Giám đốc, từ
điều nhỏ việc to, nhất là ông bất bình ra mặt, khi thấy Linh thân thiện với chị
Trâm, một người mà ông cho là “người của Mỹ Ngụy”. Chị Trâm biết nhưng chị phớt
tỉnh ăng lê, chị thừa sức biết là họ vẫn phải cần chị, trong cái tài giỏi của một
kỹ sư miền Nam ít nhất cho tới lúc này. Giống như anh Mẫn, chị giả mù sa mưa,
làm tròn công việc, nói cười nhất trí dù trắng có bảo là đen, vàng bảo là đỏ.
Qua Tết, số người
đi cải tạo được thả về lai rai, Sài Gòn lại ồn ào thấy khác, công an phường
khóm lăng xăng bận rộn, làm khó làm dễ bọn Mỹ Ngụy thua cuộc trình diện quản chế,
hạch sách đủ điều. Gia đình có người về cũng lăng xăng không kém, nhưng lăng xăng
trong mừng mừng tủi tủi, từ sau nhà ra tới góc phố. Bạn tù gặp nhau trên đường
phố lạ lùng, con đường Duy Tân không còn nữa cây dài bóng mát, ly cà phê lạt lẻo
trong một góc lề tưởng chừng như đắng hơn là chén thuốc độc hy sinh đời của ông
Phan Thanh Giản. Thằng Phong, con của chị Huân, mấy ngày nay không thấy đi làm
và cũng không thấy lảnh tiền lương kỳ này, chị Trâm hơi nghi nhưng mừng thầm nếu
sự việc đúng như mình nghĩ. Anh cán bộ phụ trách phát lương còn giữ phần của
Phong, vì thấy chị Trâm quen biết nó nên tìm lên văn phòng gặp chị hỏi thăm.
Anh phát lương vui tánh nhưng cũng là cán bộ tập kết từ Bắc về, cho nên chị đề
nghị chung chung, chờ vài bữa xem sao, có thể Phong bị bệnh không đi làm nổi.
Chiều Chủ Nhật, hơn
mười ngày Phong không đến hảng làm, sau khi cùng anh Mẫn đi thăm một người bạn
cùng thời, gốc sĩ quan của Quân đoàn Ba VNCH cũ, được thả về, nhà trong cái hẽm
nhỏ bên hông trường trung học Đắc Lộ ở ngã tư Bảy Hiền, thấy trời còn sớm, cũng
tiện đường, anh chị ngược lên Bà Điểm thăm chị Huân và mấy đứa nhỏ. Chị Huân
cho biết, Phong với số tiền dành dụm, nhịn ăn nhịn mặc của gia đình, theo bạn
vượt biên từ Long Xuyên, tàu đã đến đảo Kijiang của Nam Dương hai ba ngày trước
đây, tin làm cả nhà mừng muốn khóc. Vợ chồng chị Trâm thở phào nhẹ nhõm, nhìn
chị Huân rưng rưng nước mắt.
Trên đường về, hai người bàn với nhau, tìm lý do để
trả lời với đám cán bộ trong hảng dệt, nhất là với Linh về Phong, nếu có ai hỏi
đến, vì dù sao chị Trâm chính là người đã đưa nó vào làm ở đó. Sáu bảy giờ chiều,
mây xám xịch, nặng nề chậm chạp xuống từ phía cuối trời, bến xe ngã tư Bảy Hiền
vẫn còn đông người lên xuống, nhất là các chuyến xe đò chạy về miệt Củ Chi, Đức
Hòa Đức Huệ, Tây Ninh, đầy ắp mấy anh bộ đội tay xách nách mang, miệng cười hồ
hỡi giữa cái lao xao của nắng chiều rớt muộn trên đường phố Sài Gòn.
Thuyên Huy
(Trích từ “Người Cộng Sản Cô Độc”, ấn bản
tiếng Việt của cuốn truyện “The Lonely
Communist Man” I Universe – New York 2009)
No comments:
Post a Comment