Gió Heo May
Ít nhất thì mỗi năm cũng có một lần,
những người vợ goá, dù đã được bà con họ hàng nhà chồng tặng bằng khen “tiết
hạnh khả phong” cũng phải bồi hồi trong giây lát. Đó là một ngày tháng Mười,
trời đang mát mẻ bỗng se lạnh vào sáng sớm.
Nhưng rồi
nắng hừng lên. Bắt đầu là một giải vàng hoe trên ngọn cau và trong phút chốc
tràn ngập đồng lúa sắp gặt, cây cỏ trong khu vườn. Sau đó một mùi thơm ngai
ngái, lạ mà quen, không thể nói đó là mùi gì, nhưng rõ ràng nó hiện hữu trong
mũi ta, trong hồn ta. Một chút gió đi qua khu vườn, lúc đầu len lén như hơi
thở. Nhưng rồi mạnh dần lên và những cây chuối, cây na thức dậy.
Đúng lúc
đó, người vợ goá lấy chiếc chăn bông vẫn cất trong gác xép từ đầu hè ra phơi.
Vì chăn nặng nên chị phải khó khăn lắm mới vắt được qua giây thép, trong khi đó
bụi bay mù lên, thứ bụi lẫn mùi cứt gián và lá hương nhu, hoa kim ngân cắt phơi
từ ngày Tết Đoan Ngọ. Và chị đã làm rơi chăn xuống đất. Tôi cam đoan với quý
độc giả là, trong ngày hôm đó người vợ goá nào cũng làm rơi cái gì đó xuống
đất, đúng lúc ngọn gió đầu mùa thổi qua vườn. Trong làng Kẻ Đồng, một làng hẻo
lánh dưới chân núi Thiên Nhẫn có một người đàn bà góa không làm rơi chăn bông
mà đánh vỡ một cái ấm trà, vốn dĩ cái ấm này không một lần được sờ đến từ ngày
chồng chết. Khi nó vỡ ra, văng trên nền nhà một chiếc răng sứt, gãy chân, mặt
răng lỗ chỗ vết sâu đen đúa., Người vợ goá nhớ lần anh chồng nát rượu súc miệng
làm văng chiếc răng sâu ra, anh ấy nhổ cái răng vào ấm pha trà. Người vợ góa
làm vỡ cái ấm ấy là chị cu Sang.
Trong nhà
thờ xứ đạo xôi đỗ này có ma xơ Jeane Ái, ta hãy gọi như dân làng là Sơ Gian,
nghe nói quê tận xứ Huế, xứ sở mà bà đã hai chục năm nay không về từ ngày theo
mẹ bề trên đi tu. Sơ Gian Ái tuy không thể gọi là một goá phụ cũng đánh vỡ một
cái gì đó khi đi qua khu vườn mênh mông của nhà thờ đúng lúc ngọn gió tai quái
thổi qua. Đồ vật bà làm vỡ là cái hộp sơn mài đựng vài thứ đồ làm lễ cha xứ
giao cho để dùng khi có kẻ liệt hay đám cưới. May sao, cái hộp bằng gỗ nên
không vỡ đôi mà chỉ sứt một miếng nắp, bà làm cách nào cũng không đính nó lại
được. Một tuần sau ngày câu chuyện này xẩy ra, bà đứng trong bục xưng tội với
Cha. Cha chỉ nói : “ Con có nhớ là khi bước vào vườn Ghết-sê-ma-ni, gặp một
ngọn gió thổi đến từ đồi Sọ, Người cũng làm vỡ một cái hộp gỗ. Người sẽ tha tội
cho con.” Sơ Gian hiểu và im lặng nhận lòng bao dung của người đã từng vì xúc
động mà đánh vỡ một cái gì đó.
Tuy đã
đánh vỡ mất kỷ vật quý giá của người chồng, chị Sang vẫn được Sơ Gian vỗ về, Sơ
nói goá chồng là một sự may mắn cho chị. Bởi vì, từ ngày anh chồng chị biết
uống rượu thì làng Kẻ Đồng nổi tiếng nghèo và ngoan đạo có thêm bốn lò nấu rượu
lậu bằng sắn thái khô, bắp hạt và giây khoai lang băm nhỏ, khi đưa bán có pha
thêm vài giọt thuốc trừ sâu Vôphatốc cho rượu nặng thêm, thì mỗi năm nhà thờ
chỉ còn được cúng vài sọt bắp ngô so với năm chục sọt trước đó. vì ngô và sắn
đã biến thành chất cay đổ hết vào chai, nhiều người bỏ lễ trọng bởi không thể
nào đứng dậy mà đi được. Còn tình cảnh chị Sang thì khỏi nói. Người ta thường
gặp chị đi trên đường, tay bao giờ cũng cầm một cái chai. Và hình ảnh đáng
thương ấy biến mất sau ngày anh chồng chết. Sơ Gian tuy đã hơn hai mươi năm hầu
hạ Chúa và tâm hồn bà thấm đẫm tiếng chuông nhân ái của nhà thờ cũng nói với
chị Sang rằng, tuy anh chồng chị không làm lễ rửa tội nhưng Chúa cũng bao dung
gọi anh ấy về bên mình để cứu rỗi một người đàn bà tội nghiệp như chị. Đáng lẽ
chị phải là một người đàn bà hạnh phúc, chị có quyền được hưởng hạnh phúc ấy
khi ra đường với những đứa con kháu khỉnh, thông minh, tay dắt trẻ chứ không
phải cầm một cái chai. Chúa đã lấy đi cái chai trong tay chị bằng cách tiện lợi
nhất, đó là lòng lành vô biên vì chính Người, trước khi lên đồi Sọ để chịu cực
hình đã từng cầu xin Đức Chúa cất hộ mình cái chén đắng tiền định mà không
được. Người đã phải uống trọn cái chén đắng ấy cho Sơ, cho chị cho mọi người
anh em nên Người hiểu thế nào là rượu đắng và Người đã cất hộ chị không phải
chỉ một cái chén mà là cả một cái chai. Và, Sơ Gian nói thêm, nếu anh ấy được
hầu hạ bên mình Chúa thì khi anh ấy yêu cầu, chính Người sẽ ra đường, tay cầm
một cái chai để chiều lòng anh ấy. Người cứu rỗi chị bằng mồ hôi của Người, đi
mua rượu cho người nghiện rượu để chữa bệnh nghiện rượu cho họ như đã từng chìa
má trái cho người đã đánh mình bên má phải để cảm hóa họ, như từng chữa bệnh
cho kẻ liệt nghèo hèn, hôi hám. Đương nhiên chị Sang không hiểu Người đây là
ai, chị cũng không phải dân đi đạo nên chẳng bao giờ được cha xứ dạy dỗ để hiểu
những tích đạo mà Sơ nói. Từ nhỏ chị chỉ tin có tích truyện Tấm Cám, chị tin
cảnh cái võng bị chặt đứt khi đang có người nằm ở trên, có người này xui người
khác tắm bằng nước sôi và hũ mắm muối bằng thịt người là chuyện có thật. Bởi vì
mẹ chị đã kể cho chị nghe đến hàng trăm lần chuyện đó hồi nhỏ, lớn lên, chị
cũng được nếm qua cuộc đời khổ nạn của cô Tấm.
Một hôm trong cơn say anh chồng
đã chặt đứt đôi cái võng chị đang nằm, lần khác, khi nghe vợ nói nhà chỉ còn
nồi cháo hoa ăn tối thì anh vừa chửi vừa chặt phăng ngón tay út của mình quẳng
vào nồi, sau đó bắt chị ăn bằng hết hai bát cháo nấu với hai đốt ngón tay của
chồng để trừng phạt cái tội chị đã không mua thịt nấu cháo cho anh ta ăn. Lớn
lên, chị theo mẹ đi chùa và chị tin có Phật Quan Âm, chị khóc khi nghe mẹ kể
nỗi oan của bà Thị Kính, trong một đêm rằm khi trong gian hậu nhà chùa chật
chội, anh cu Sang cấu vào mông chị, chị suýt ngất xỉu vì sợ Phật trừng phạt đưa
chị xuống địa ngục cho quỷ xa tăng giầy vò, tra tấn, thả vào vạc dầu, chị mặc
cảm tội lỗi như cái mông của chị là thủ phạm chứ không phải bàn tay của cu
Sang. Rồi lần đi họp đầu tiên để bàn chuyện đào mương làm thuỷ lợi. Chị nghe
một người đàn ông nói là chúng ta sẽ thay Trời làm ra mưa, sẽ vắt đất làm ra
nước, Chúa hay Phật hay bất kỳ ai nói cứu khổ cứu nạn mà không vào hợp tác,
không động viên dân quân canh phòng kẻ gian và gián điệp, không hô hào thanh
niên đi làm thuỷ lợi thì cũng chỉ là những anh nói phét một tấc lên giời (ông
ta nói đớt, không nói trời mà là giời, không nói trăng mà là giăng). Chị thấy
ông ta nói đúng quá, chị vào hợp tác, đi tuần đêm với dân quân tuy không bắt
được tên trộm hay gián điệp nào, chị đào mương làm thuỷ lợi và còn tập hát nữa.
Rồi chị lấy chồng, lấy người đã cấu vào mông chị lần đầu tiên đó là anh cu
Sang. Mẹ chị bảo như vậy là vì đã thất tiết với người ta rồi, dù đó là người
không ra gì cũng phải lấy. Từ đó chị gắn đời mình với những cái chai và những
cuốn sổ nợ. Tuy vậy, theo đầu óc một người đàn bà nông dân sống suốt đời trong
làng quê hẻo lánh, nếu quả thực Chúa gọi chồng chị về hầu hạ mình như bà xơ nói
thì Chúa cũng không được công bằng cho lắm. Bởi vì sống ở quê mà có một thằng
chồng nhổ răng mình vào ấm pha nước hay bắt vợ ăn cả ngón tay út của mình thì
cũng còn hơn không có thằng chồng nào, nếu không có anh ta chị sẽ phải sống
cảnh góa bụa.
Chị chưa từng ở goá nhưng chẳng lạ cảnh bà goá trong làng đã phải
còng lưng đi kiếm củi một mình, không ai chờ dưới chân đèo đón hộ gánh củi trên
vai. Vậy mà cũng đã nhiều lần anh ta đi đến tận dốc Nai Bò đón củi cho chị. Anh
ấy cũng biết sửa lại cái chân phản ngựa bị gãy sau một trận quần đảo chị như
người ta vật nhau ở đình làng ngày mồng một Tết. Nếu những ngày sống ấy được
gọi là hạnh phúc thì chị cũng từng có hạnh phúc. Chị không dám oán Chúa. Tuy
chị không biết Chúa là ai, mặt mũi như thế nào vì chị chưa bao giờ vào nhà thờ,
nhưng chị nghĩ người được Sơ Gian phụng thờ thì chắc là người tốt. Vì Sơ Gian
là một người tốt bụng. Bà ấy nhân từ, chịu thương chịu khó, làm được nhiều việc
cho dân làng này như đi đỡ đẻ, cho thuốc thang, bất kể người ta là lương hay
giáo. Và chị nhớ anh cu Sang, nhớ thực sự như khi người ta nhớ. Dù sao anh đã
sống với chị mười hai năm, không con cái, không làm cho chị tự hào, kiêu hãnh
và thường biến chị thành một người lẩn thẩn, mù mờ, thất tha thất thểu trên
đường làng, túi không tiền, tay cầm một cái chai. Chị đi đến nhà này, nhà khác,
nhà nào họ cũng chìa sổ nợ ra, sổ nợ của họ là những tờ giấy có dấu điểm chỉ
của anh. Mỗi ngón tay được bôi nhọ nồi ấn vào là một xị rượu phần tư lít. Anh
ngại gì mà không thoa cả năm ngón tay vào dưới đít nồi để đổi rượu, với thành
quả lao động của năm ngón tay và đĩa ổi xanh, anh đã có thể uống suốt đêm và
nhiều khi suốt ngày.
Cuối cùng
thì chị cũng tìm ra một nhà chịu bán rượu cho, đó là người đàn ông độc thân tên
Cu Ca. Anh ta ở mép làng, một ngôi nhà riêng rẽ trước đây là lò rèn của một ông
phó bẻm mép. Ông này rèn những cái dao chém bùn không có vết mà vẫn khoác lác
là thợ giỏi nhất vùng. Nói khoác thường không phải giả tiền, nhưng người mua
dao, kéo, liềm hái thì vẫn phải bán thóc để trả nên cuối cùng sự độ lượng của
dân chúng đã tới hạn. Dân làng xót của, la thét : “Giá dao thằng này mà sắc
được như mồm của nó thì khỏi nói!” Họ nổi lửa đốt phăng cái lò rèn. Anh cu Ca
vốn là người khiêm nhường vì cái tước cu của anh không là gì để anh kiêu ngạo
hay khuếch khoác, nó chỉ vừa đủ chứng minh cơ thể anh cũng có bộ phận quan
trọng nhất của người đàn ông mà thôi. Nhưng khi anh goá vợ vào tuổi ba mươi mà
lại chưa con cái gì thì anh là người được đám vợ goá làng Kẻ Đồng để mắt. Nửa
đêm về sáng ít nhất có vài người trong số họ nằm mơ thấy mình ngủ với anh ta.
Họ đỏ mặt , tự trách mình, lo lắng tiết hạnh sứt mẻ, nhưng sau đó lại cười tủm
tỉm, tự tha thứ cho những cử chỉ quá đáng đến mức họ chưa hề làm, chưa hề nghĩ
tới như họ đã làm trong giấc mơ ấy.
Trong số
những người nằm mơ một cách tội lỗi ấy có chị chắt Sang. Điều này là có thể
hiểu được nếu ta nhớ lại ngày anh Sang nát rượu còn sống, những ngày đó, khi
Chúa cha chưa rủ lòng thương cất giùm cái gánh nặng trên vai người đàn bà khốn
khổ thì chị Sang thường phải thất thểu với cái chai trên đường làng tối tăm đầy
cứt chó mà không có ai bán rượu cho chị. Người duy nhất cứu được chị trong cơn
bí quẫn ấy là anh Cu Ca. Hơn nữa, có một đêm mưa gió nổi lên bất ngờ ngay khi
chị Sang cầm chai rượu đầy từ nhà cu Ca ra về. Anh Ca đuổi theo chị, nói là
chẳng thà anh chạy ào vào làng đưa rượu cho “thằng khốn nạn” ấy nốc còn hơn là
để chị xông pha giữa mưa gió. Chị mềm lòng quay trở lại chờ tạnh mưa. Và tối
đó, khi mưa không muốn dứt, chị đã cho anh cu Ca, anh kéo chị vào lòng mà nói :
“Thèm quá, cho xin một cái nào!” Chị biết đó là việc hệ trọng đối với người đàn
bà đã có chồng. Nhưng chị không hề nghĩ là mình đã phản bội chồng như sau này
đọc thấy trong sách. Người tử tế như thế, người đã tin mà bán chịu cho chị
trong khi cả làng đều quay mặt đi mà đã xin thì chị cho, đơn giản thế thôi. Đó
là lần đầu tiên mà cũng là lần cuối cùng. Sau ít lâu thì chồng chết, số quán
rượu trong làng phải dẹp hơn một nửa vì thị trường thu hẹp, những người nghiện
rượu đều chết vì bệnh xơ gan bởi thứ rượu pha thuốc trừ sâu và cũng có thể do
cứt chó. Nghe nói chính Cu Ca là người đã cho vào mỗi nồi rượu một hạt phân chó
bằng hạt ngô cho ngậy lên cái mùi dân nghiện rất thích, người này ra tha ma
cách người kia hai, hoặc ba ngày và chị Sang không đến nhà Cu Ca lần nào nữa.
Chúng ta
sẽ bất công nếu nói trong buổi sáng có ngọn gió heo may quỷ quái đó thổi về chỉ
có những người đàn bà goá mới đánh rơi đồ vật trong tay họ. Có một người không
phải đàn bà, càng không phải đàn bà goá, cũng làm đổ một chén trà đang uống dở,
đó là cha xứ. Cũng như Sơ Gian, theo một góc độ nào đó, nhất là góc độ sinh vật
học, cha xứ cũng có thể gọi là goá nên cha có làm đổ một chén nước trong giây
phút mà mọi người đàn bà goá đều làm đổ một cái gì thì cũng chẳng phải là tội
trọng. Vốn là người hiền từ và đa cảm, cha cũng cảm thấy mùi vị khác thường của
ngọn gió. Cha cũng nhớ và bồi hồi. Cha nhớ có một ngày giông bão cả làng không
ai đi chợ được, một người đàn bà đã đập cổng nhà thờ đòi mua rau cải. Chị bảo
mua rau về làm giỗ đầu cho chồng nên cha xứ biết là chị goá. Cha nhân từ bảo
ông bõ nhà thờ nhổ cho chị ít rau và hành hoa trong vườn, chị lề phép lạy cha
rồi nhỏ nhẹ hai tiếng cám ơn. Đúng lúc đó cha quay mặt đi vì không thể nào chịu
nổi dáng người đẹp thon thả của người goá phụ lộ rõ ra khi nước mưa làm quần áo
chị dính vào da thịt. Đã lâu lắm rồi ở đất Kẻ Đồng hoang vắng này cha mới thấy
một sự cám dỗ đẹp như thế ẩn hình trong bộ quần áo ướt. Tháng cấm phòng sau đó
mấy hôm, các cha xứ bạn hữu thấy cha Kẻ Đồng vật vã như người ốm. Ông cố xua đuổi
hình ảnh người đàn bà ướt mưa hôm đó mà không được. Cuối cùng chính Đức Mẹ Rất
Thánh đã giải thoát cho ông, khi ông một mình cầu nguyện trong cấm phòng toà
giám. Ông tha thiết được gặp Mẹ, ông cầu lạy lái tim vô nhiễm nguyên tội Đức Mẹ
đồng trinh, xin đền tạ lái tim đau đớn Mẹ, bù lại những tội lỗi con đã nghĩ đã
làm xúc phạm đến Lái tim Mẹ, cùng Lái Tim Chúa Giê Su Con Mẹ, ông đau đớn cảm
thấy Chúa đã giận dữ mình trong buổi chiều mưa hôm ấy nên mọi lời cầu nguyện
của ông hình như không thấu đến tai Người. Và ông đành nguyện xin Mẹ cho con
được vào ẩn náu trong Lái Tim Mẹ và nhờ Lái Tim Mẹ mà đến cùng Lái Tim cực
Thánh của Chúa Giêsu Con Mẹ. Ông thì thầm cầu xin một mình trong phòng nguyện
toà Giám và khi mệt mỏi đứng dậy, ông biết ngay mình đã được Mẹ tha thứ. Mẹ đã
bao dung cho ông ẩn náu trong trái tim Người và đó là con đường ngắn nhất để
ông tiếp thông với Đấng tối cao và xin lòng tha thứ.
Ông quên
hẳn chị cu Sang cho đến hôm có cơn heo may đầu mùa ấy. Lúc đó Sơ Gian vẫn cầm
hộp bí tích trên tay vì bà đang lấy tràng hạt và cây thánh giá ra lau chùi thì
cha gọi. Hai người đi dạo trong vườn nhà thờ. Cha xứ bảo muốn đảo một vòng để
xem mấy đám đất gieo hạt giống xu hào ý mọc mầm ra sao, đó là món quà của Đức
Giám mục dịp người sang La Mã thụ ơn Đức Thánh Cha trở về. Bỗng ngọn gió thổi
đến. Cha xứ đứng lại.
Sơ Gian
lúng túng nhặt hộp bí tích lên. Bà đã kịp cho miếng gỗ bị sứt vào túi và giấu
cái hộp dưới vạt áo. Nhưng cha đã nhìn thấy, ông không nói gì. Ông đọc được
thoáng bồi hồi trong mắt xơ cũng như nó vừa chợt tới trong lòng ông lúc cơn gió
thổi qua.
-Thưa
cha.. .
-Sơ còn nhớ nhà chị cu Sang, người đàn bà góa đến nhà thờ mua rau cải về làm giỗ chồng năm ngoái ?
-Dạ, có nhớ. - Sơ cung kính - Dạo chồng chị ấy chết con có đến giúp đám nhà chị ta.
-Nhưng rồi Sơ không bao giờ trở lại nữa phải không ?
-Dạ.
-Như vậy là Sơ đã yêu người ta bằng mình chưa?
-Dạ thưa cha, chưa. Con chưa trọn điều ấy. Vả chị ta cũng chưa làm phép rửa tội bao giờ.
-Mọi người ở thế gian này đều từ cõi không, do Cha chúng ta ở trên trời làm nên mà có, phải thế chăng ?
-Dạ, thưa cha.
- Vậy thì chúng ta là tôi tớ của Người, sao Sơ không nghĩ ta phải làm cho không thành có?
-Dạ con hiểu.
-Cha biết con đã đem tình thương của con mở rộng nước Trời lâu nay mà quên sự vất vả. Nay cha nhắc Sơ điều nên làm ấy.
-Sơ còn nhớ nhà chị cu Sang, người đàn bà góa đến nhà thờ mua rau cải về làm giỗ chồng năm ngoái ?
-Dạ, có nhớ. - Sơ cung kính - Dạo chồng chị ấy chết con có đến giúp đám nhà chị ta.
-Nhưng rồi Sơ không bao giờ trở lại nữa phải không ?
-Dạ.
-Như vậy là Sơ đã yêu người ta bằng mình chưa?
-Dạ thưa cha, chưa. Con chưa trọn điều ấy. Vả chị ta cũng chưa làm phép rửa tội bao giờ.
-Mọi người ở thế gian này đều từ cõi không, do Cha chúng ta ở trên trời làm nên mà có, phải thế chăng ?
-Dạ, thưa cha.
- Vậy thì chúng ta là tôi tớ của Người, sao Sơ không nghĩ ta phải làm cho không thành có?
-Dạ con hiểu.
-Cha biết con đã đem tình thương của con mở rộng nước Trời lâu nay mà quên sự vất vả. Nay cha nhắc Sơ điều nên làm ấy.
Sơ Gian
đến nhà chị cu Sang vào lúc nắng đã gay gắt, thứ nắng hanh trong tiết trời trở
lạnh làm da dẻ người ta mốc trắng vì gió heo không làm ra mồ hôi. Chị Sang, sau
khi đánh vỡ cái ấm pha trà, không biết làm gì với chiếc răng sâu của chồng, cứ
cầm nó trong tay mãi. Đáng lẽ chị còn phải phơi chăn bông và đổ lạc củ ra nia
cho uống nắng, nhưng vì vướng chiếc răng trên tay nên chị cứ trăn trối ngồi
trên bậu cửa nhìn ra sân, nhìn đám lá chuối lật qua lật lại trong gió như chính
cõi lòng bất yên của chị. Chiếc răng vừa tìm thấy sau cơn gió không gợi lại cho
chị hình bóng người chồng hung bạo, say nhè mà trái lại, những kỷ niệm êm ái
trở về. Chính đêm trước hôm anh chồng súc miệng làm văng chiếc răng sâu, chị đã
dùng lưỡi mình lung lay cái răng vốn đã như cóc gậm và thường làm anh chồng mất
ăn mất ngủ hàng tuần trăng liền. Anh bỗng trở nên dịu dàng hơn trong cơn ân ái,
cái lưỡi chị làm anh đã ngứa và hết nhức răng, anh thừ ra như con trâu được kỳ
cọ bằng thứ con cúi rơm lúc tắm dưới suối.
-Chào
Sơ ! - chị Sang đứng dậy, bước xuống sân, bỏ chiếc răng của anh chồng quá cố
vào túi rồi nắm lấy ống tay áo lụng thụng may bằng vải đen của Sơ Gian. Trong
bộ đồ tu sĩ, nước da Sơ càng trắng còn đôi môi thì hồng như tô son. - Lâu nay
con không được gặp Sơ!
-Sơ bận quá!
-Con vừa đánh vỡ mất cái ấm pha trà. Mời Sơ uống nước vối với con vậy.
-Cám ơn em. Nhà thờ cũng có một cây vối. Sơ thường uống nước vối với bõ già. Xứ Huế của Sơ người ta cũng ham nước vối lắm. Mà này, hôm ni là ngày chi mà Sơ cũng lập cập đánh rơi cả hộp bí tích xuống đất.
-Vậy ư Sơ ? Tại trờì trở gió. Con cứ thấy chộn rộn trong người làm sao ấy. Sơ ơi, nghe nói cây vối ở vườn nhà thờ đã sống hơn trăm rưỡi năm, trước cả ngày cha Bảy dựng nhà thờ nữa, phải không ạ ?
-Sơ bận quá!
-Con vừa đánh vỡ mất cái ấm pha trà. Mời Sơ uống nước vối với con vậy.
-Cám ơn em. Nhà thờ cũng có một cây vối. Sơ thường uống nước vối với bõ già. Xứ Huế của Sơ người ta cũng ham nước vối lắm. Mà này, hôm ni là ngày chi mà Sơ cũng lập cập đánh rơi cả hộp bí tích xuống đất.
-Vậy ư Sơ ? Tại trờì trở gió. Con cứ thấy chộn rộn trong người làm sao ấy. Sơ ơi, nghe nói cây vối ở vườn nhà thờ đã sống hơn trăm rưỡi năm, trước cả ngày cha Bảy dựng nhà thờ nữa, phải không ạ ?
Sơ Gian
làm dấu Thánh.
-Cầu
cho cha Phê rô Bảy an nghỉ trên nước Thiên Đàng. Con hỏi những thứ từ ngày chưa
có bà cố của Sơ, làm răng Sơ biết được ?
Sơ Gian
hỏi chuyện mùa màng chuyện khoai sắn lúa bắp nhà chị Sang. Rồi Sơ phàn nàn năm
nay vườn nhà thờ thu hoạch kém, người ta chỉ cho các bà già đến trồng trọt,
chăm sóc. Chẳng cây nào mọc ra hồn, thu hoạch bắp và mấy cây ăn quả lưu niên
không đủ trả tiền phân. Lễ lạt của dân cho nhà thờ cũng teo dần, năm sau không
bằng năm trước. Chị Sang nói :
- Có thế
thật ! Người có sức thì phải cào cấu nuôi con. Họ đưa bà già đến giúp nhà thờ
cũng là có lòng với cha và Sơ lắm rồi. Bên ấy, ngoài các khoản đóng góp như bọn
con, người ta còn phải thêm khoản cho nhà thờ.
-Nhưng chẳng lẽ lại để người chăn chiên chết đói hay sao ? Sơ thì không nói, ăn mặc chi cũng xong, nhưng cha bề trên thì không thế được.
-Tại xứ đạo mình nghèo. - Chị Sang chép miệng - Người nào cũng phải lăn lưng ra mà không đủ sống. Bà goá lại nhiều hơn nơi khác. Thiếu đàn ông thì ai cũng khổ, phải không Sơ ?
-Nhưng chẳng lẽ lại để người chăn chiên chết đói hay sao ? Sơ thì không nói, ăn mặc chi cũng xong, nhưng cha bề trên thì không thế được.
-Tại xứ đạo mình nghèo. - Chị Sang chép miệng - Người nào cũng phải lăn lưng ra mà không đủ sống. Bà goá lại nhiều hơn nơi khác. Thiếu đàn ông thì ai cũng khổ, phải không Sơ ?
Mắt Chắt
Sang long lanh, dồn nén những điều chưa được giải toả từ sáng đến giờ. Hôm nay
là ngày chi chi ? Gió heo may về, chiếc răng sâu hiện ra, mặt ao tù nổi sóng.
Chị mạnh bạo đưa đôi cánh tay rộng và chắc ôm chầm một vòng cái eo nhỏ bé của Sơ
Gian như ôm một cô bạn gái cùng làng.
Sơ Gian đỏ
mặt vùng vẫy thoát khỏi bàn tay cám dỗ, lại đưa ngón tay làm dấu và thì thầm
đọc kinh dâng mình cho Đức Mẹ, tôi đã dâng con mắt, lỗ tai, miệng lưỡi, lái tim
cùng cả mình tôi cho Đức Mẹ thì ngày hôm nay lạy Đức Bà Maria, lạy Mẹ khoan
thay, xin Mẹ gìn giữ tôi như của riêng Người vậy. Amen. Chị chắt Sang không
nghe rõ Sơ thì thầm điều gì nhưng chị sững lại vì nhìn thấy Sơ run rẩy và sợ
hãi như đạp phải một con rắn.
-Không,
em ạ. Sơ đã dâng mình cho Đức Chúa và Hội Thánh, con người Sơ lạnh như băng
rồi, Sơ không thấy khổ là chi nữa.
-Nhưng con thì không được thế, Sơ.
-Chừ con muốn thì chẳng ai ngăn cấm con được thế. Vòng tay Đức Mẹ và con của Mẹ rộng vô biên, Người không từ chối một ai đến bên Người.
-Sơ bảo con cũng đi tu như Sơ ư?
-Sơ không bảo thế. Nhưng nếu con chịu phép rửa tội nhưe những người đi đạo trong làng thì Chúa sẽ tha thứ cho cái tội tổ tông truyền của con. Con sẽ không thấy khổ sở, dằn vặt mỗi khi gió heo may về nữa.
-Chẳng nhẽ con không còn cách gì khác nữa hay sao ? Hay là con lấy chồng ?
-Nhưng con thì không được thế, Sơ.
-Chừ con muốn thì chẳng ai ngăn cấm con được thế. Vòng tay Đức Mẹ và con của Mẹ rộng vô biên, Người không từ chối một ai đến bên Người.
-Sơ bảo con cũng đi tu như Sơ ư?
-Sơ không bảo thế. Nhưng nếu con chịu phép rửa tội nhưe những người đi đạo trong làng thì Chúa sẽ tha thứ cho cái tội tổ tông truyền của con. Con sẽ không thấy khổ sở, dằn vặt mỗi khi gió heo may về nữa.
-Chẳng nhẽ con không còn cách gì khác nữa hay sao ? Hay là con lấy chồng ?
Sơ Gian ái
ngại nhìn goá phụ trước mắt mình. Cha bề trên bảo Sơ phải cứu vớt chị ta để mở
rộng nước Trời. Cha bảo rằng, con chiên lạc đàn thì trước hết phải cho nó nhìn
thấy một bó cỏ. Vườn nhà thờ rộng mênh mông mà chỉ trông mong vào những bà già
công quả như bên mấy cái chùa thì chẳng ăn thua. Phải thuê mướn người có lực,
có kinh nghiệm trồng trọt với giống mới, phương pháp mới. “Nếu thuận, Sơ hãy
bảo chị va đến làm công cho nhà thờ. Ta sẽ trả công xá rộng rãi, còn Sơ thì
cũng tiện tiếp xúc” - Cha bảo thế.
Chị chắt
Sang không từ chối. Chị bảo làm công cho nhà thờ thì cũng còn hơn vào mấy cánh
rừng cạn kiệt trên Ngàn éo mà nhặt nhạnh củi khô kiếm ăn. Nhưng bảo còn phải để
chị thu xếp đã. Sơ Gian ra về. Sơ biết là mình còn phải trở lại đây nhiều lần
nữa. Trong thâm tâm Sơ thương người đàn bà goá có cuộc đời khổ nạn không lối ra
và chỉ được giải thoát khỏi cái án chung thân khi trở thành goá bụa. Nhưng goá
bụa thì cũng là một cái án chung thân khác nếu chị va không biết dâng trọn mình
cho Đức Chúa lòng lành.
Chị chắt
Sang mất hẳn một ngày không động tay động chân được vào công việc gì trong nhà,
trong vườn. Chị cảm thấy hôm nay là một ngày hệ trọng, có lẽ nhờ cơn gió mà chị
tìm lại được chiếc răng sâu của chồng, người chồng bây giờ đây chỉ để lại trong
chị những kỷ niệm êm ấm, yêu thương. Bao nhiêu đòn vọt, nhục nhã, hận thù với
anh ta chị đã quên hết. Chị lấy lại chiếc răng trong túi ra ngắm nghía tự hỏi
xem nên làm gì với nó bây giờ ? Nó là một phần hài cốt của anh không thể khinh
suất được. Mãi suy nghĩ những chuyện đó mà chị quên cả nhóm lửa nấu cơm tối.
Nhưng chị không thấy đói. Một ngày như thế này thì ăn uống vào cũng như không.
Chị lâng lâng trong cảnh hư và thực, nửa đói nửa no, không nghe bước chân mình
đi, không cảm thấy cảm giác gì khi cầm lên một thứ đồ vật nào đó trong nhà.
Phải rồi, hồi mới cưới chị cũng có vài ngày như thế. Lại nữa, một lần khác, khi
cuộc chung sống với anh chồng đã nhàu như giẻ trong mớ tã địa ngục, cái đêm vì
thương người và nhẹ dạ, chị cho anh Cu Ca đè lên mình rồi lăn đi lăn lại chị
như một khúc chuối trên tấm phản ọp ẹp chị cũng thấy nhẹ nhõm, lâng lâng như
thế. Nhưng cơn sung sướng kia là thật, còn cái lâng lâng hôm nay chỉ là một
tiếng vọng, một ảo giác mơ hồ, như có như không. Chính vì thế mà tâm hồn chị
căng thẳng, đau đớn, lòng chị tan nát khi biết ra là tất cả đã qua rồi, đã chìm
ngỉm trong cơn tuyệt vọng. Chính lúc đó trong đầu chị bật ra một ý nghĩ : “ Hay
là... đi tu như Sơ Gian cho xong!” Cái ý nghĩ bất chợt ấy làm chị sợ hãi. Bởi
vì, tuy trong làng ai cũng mến và kính trọng Sơ Gian vì bà thương người và hay
giúp kẻ khó. Nhưng hễ mỗi lần bà gọi người ta làm lễ rửa tội thì mọi người đều
tự nhìn mình như một tên phản bội và bà Sơ tốt bụng kia nhanh chóng biến thành
ma đưa lối quỷ đưa đường. Làm sao lại bỏ mặc bàn thờ ông bà ông vải không giỗ,
không chạp, làm sao không đi lễ Phật ngày rằm, ngày mồng một được cơ chứ ? Chị
Sang đang sống trong cơn sợ như thế và chị bất giác thở dài, tâm thần bấn loạn.
Tất cả tội vạ là do cơn gió hết! Mới ngày hôm qua đây chị còn thanh thản, yên
một bề như con mèo ngủ trên đống rơm mà nay thành con nai sổ chuồng tung tăng
trên đồng nội.
Tối hôm đó
chị Sang ngủ đói. Lâu lắm rồi, từ ngày ở goá, không có đàn ông đỡ đần việc đồng
áng, chị không còn phải đi ngủ đói nữa. Chị đã dự trữ được một cót thóc, năm
nào cũng đổi hạt cho nó mới. Sáng dậy chị tưởng không cất nổi mình vì những
mộng mị tai quái làm chị đỏ mặt lúc nhớ lại. Chị phải cho hai tay vào giữa đùi
rồi nghiến răng khép chặt lại một lúc lâu mới tỉnh táo hẳn.
Lại một
ngày lâng lâng và khổ sở trôi qua. Gió heo may càng thổi mạnh hơn như nó vừa
được sổ chuồng đang tìm cách vượt qua những con truông trên núi Thiên Nhẫn đến
từng nhà, từng người để rủ rê, khuyên bảo người ta nhớ lại, người ta hãy phá
phách hay gào thét. Thứ gió lạ lùng làm trời trở lạnh mà hanh khô không để ai
yên. Tối hôm đó, đang vật vã trên cái giường rẽ quạt mua từ hồi lấy chồng, chị
chắt Sang thấy sợi giây lạt cột cửa trở mình rồi rơi xuống đất. Cánh cửa mở ra
và cu Ca bước vào.
Y ta bảo
rằng, không ngờ cơn gió heo may đầu mùa lại có thể làm tốc mất cái chái hồi của
nhà y, có lẽ vì nhà y ở ngoài lũy tre nên không có gì che chắn, cái chái bị
bứng khỏi mái nhà rơi xuống đất lại còn gây thêm tai vạ làm nát tinh tươm một
luống su hào mới gieo, đè chết một con mèo tam thể cùng hai con chó con mới
tách mẹ. Toàn bộ vốn líếng y đã đổ vào luống rau giống đó với hy vọng dựng lại
cái nhà quá ọp ẹp trước Tết. Y buồn, y khổ, y không thể nào ngủ được trước một
tai bay vạ gió như thế. Và y chỉ còn nước đến với chị. Y đã nhịn thèm hai năm
nay, y muốn chờ chị hết tang chồng cho phải đạo nhưng làm sao y lại phải chờ,
phải đợi kia chứ ?
Chị Chắt
đang ngần ngừ thì y đã nhanh chân bước tới bàn, không thổi mà cầm chiếc đèn Hoa
kỳ dốc ngược lên cho nó tắt thật nhanh rồi kéo chị lên giường.
Cu Ca ngủ
li bì đến tận chiều hôm sau. Chị Chắt Sang luộc cả một ổ trứng gà mới ấp được
hơn mười bảy ngày thả vào chậu nước lạnh cho dễ bóc, chờ y thức dậy.
Sơ Gian
đang tưới rau thì ông bõ già ra vườn bảo lên gặp cha xứ. Hai hôm nay Sơ thấy
cha để đèn rất khuya, cửa sổ phòng cha hướng Tây Bắc và đương nhiên gió heo may
thổi đến từ phía ấy. Nhưng cha không đóng cửa. Ánh đèn phòng cha làm sáng lên
một nửa khu vườn và do phòng ngủ của Sơ nằm trong dãy nhà ngang nên ánh sáng
khác thường ấy và những tiếng rít của trận gió đầu mùa cũng làm Sơ Gian mất ngủ
lây. Xứ Huế của Sơ cũng đôi khi hứng gió heo may nhưng nó không tai ác, không
độc địa như ngọn gió này.
-Thưa
cha, người không được khoẻ ?
-Không, cha vẫn bình thường. Cha chỉ muốn nhắc Sơ về chuyện chắt Sang. Sơ đã trở lại với chị va chưa ?
-Dạ, con định chiều ni mới lại.
-Bảo chị ấy thu xếp nhanh nhanh. Gió heo may về rồi, mùa rau đã vào vụ. Mấy luống xu hào Đức Giám cho nhà thờ bán chắc được tiền nhưng phải có người chăm sóc. Ta không được phụ lòng cha bề trên.
-Con xin vâng, thưa cha.
-Không, cha vẫn bình thường. Cha chỉ muốn nhắc Sơ về chuyện chắt Sang. Sơ đã trở lại với chị va chưa ?
-Dạ, con định chiều ni mới lại.
-Bảo chị ấy thu xếp nhanh nhanh. Gió heo may về rồi, mùa rau đã vào vụ. Mấy luống xu hào Đức Giám cho nhà thờ bán chắc được tiền nhưng phải có người chăm sóc. Ta không được phụ lòng cha bề trên.
-Con xin vâng, thưa cha.
Sơ Gian
nói, cảm thấy trào lên trong lòng một tình thương vô bờ đối với người đàn ông
đứng trước mặt mình. Lạy Chúa tôi, xin Người hãy cứu vớt những tâm hồn nhạy cảm
và yếu đuối. Sơ đến nhà chị chắt Sang thì cửa nhà đang đóng. Sơ nghĩ có thể vì
gió thổi quá mạnh hay chị va khó ở, đau mình. Sơ nhẹ nhàng hé tấm liếp cửa nhìn
vào. Sơ thấy Cu Ca đang nằm, ngực để trần, hai tay buông thõng và nét mặt mệt
mỏi, nhàu úa nhưng đầy hoan hỉ đang nhai chem chép những miếng trứng gà lộn do
chắt Sang cầm cái thìa nhỏ bón cho. Chị va quỳ trên người cu Ca, phô tấm lưng trần
ra phía cửa nên Sơ không nhìn thấy mặt. Chỉ thấy lọn tóc chị xoã xuống vai
xuống lưng và cái đuôi tóc dập dờn nhảy nhót giữa hai cái đùi trần duỗi thẳng
của cu Ca.
-Này,
răng trên thì vứt xuống giường hay lên mái nhà nhỉ ? - Chắt Sang vừa bón trứng,
hỏi.
-Nỡm ! Vứt đâu mà chẳng được! - cu Ca nhồm nhoàm trả lời.
-Nỡm ! Vứt đâu mà chẳng được! - cu Ca nhồm nhoàm trả lời.
Sơ nhẹ
nhàng lui ra. Nhờ gió thổi và cũng nhờ chị chắt bận bịu bón trứng và đưa tay
liệng vật gì vào gậm giường nên hai người trong nhà không hề biết là Sơ đã đến
và đã đi lặng lẽ. Sau đó không ai ở xứ Kẻ Đồng gặp Sơ Gian nữa.
Không đề tên tác giả
304Đen – Lượm lặt trên trang mạng
No comments:
Post a Comment