Bất Chợt Thu Về Đầu Hạ
(Chương Mười Tám)
Chương Mười Tám
Trời đứng gió. Theo lời chú sáu Chuồn, xế
trưa chú sẽ lái ghe về Bến Cầu. Ba mẹ tôi hình như sẽ đi xe đò ghé Sài Gòn. Mẹ
tôi tay cầm hai ba bịch cam đi trước, chị năm Thương tay xách tay quàng gì đó ì
ạch theo sau xuống ghe. Cả hai nhìn tôi cười toe toét. Bà hỏi tôi nhiều thứ mà
không cần tôi phải trả lời. Chú sáu bỏ vào trong khoang ghe, chị năm kéo cái
cửa hầm nhỏ phía trước bỏ vội mớ đồ xuống rồi thong thả khoát nướcsông rửa tay.
Hai mẹ con ngồi bên nhau trên mui ghe nhìn trời cao sông rộng không bao lâu thì
ba tôi về tới. Trời đã gần giữa trưa. Ba mẹ tôi đi vòng ghe coi lại đồ đạc, dặn
dò chú sáu đôi ba việc trước khi chú nhổ neo .Tôi bắt tay chú từ giã hẹn gặp
lại chú ở Bến Cầu. Gia đình tôi và chị năm Thương đi lên khỏi đầu cầu ván chợ
vựa rồi, chú sáu vẫn còn đứng trên đầu ghe nhìn theo. Bóng chú nghiêng nghiêng,
nhấp nhô theo từng con sóng. Nước bắt đầu lớn.
Xe đò từ miền Tây lên bị kẹt tại cầu Bến
Lức cũng khá lâu. Trên cầu, chừng mươi anh lính địa phương quân chạy tới chạy
lui, súng bồng súng mang chỉ chỏ dưới sông. Tàu hải quân VNCH nhấp nhô quanh
mấy đám lục bình rậm lớn nổi lềnh bềnh quanh chân cầu xi măng. Khách đi xe đò
nhỏ to bảo nhau Việt Cộng gài mìn trong lục bình cho sập cầu. Trời lưng lửng xế
trưa thì đường được lưu thông bình thường. Xe đò từng chiếc chầm chậm qua cầu,
anh lính ngồi gát trong cái chòi canh đưa tay chào, cười một cách bình thản. Về
đến Sài Gòn, xuống xe đầu ngã tư Trần Quốc Toản, tôi lửng thửng đi trước, ba mẹ
và chị năm Thương thong thả theo sau, ngó quanh ngó quẩn. Ông anh họ của Tùng
về Long An từ chiều thứ sáu, nhà vắng, Tùng loay hoay quét dọn gì đó ngoài
hiên, thấy ba mẹ tôi chưng hửng vồn vã chào tiếng một tiếng hai. Tôi chưa kịp
sắp xếp mấy túi xách vào góc nhà cho gọn thì Tùng đã lăng xăng thúc giục ba mẹ
tôi cũng như chị năm Thương đi rửa tay rửa mặt. Trời cũng lấp xấp về chiều, ba
mẹ tôi nằm nghỉ tạm trong phòng, chị năm bắt ghế ngồi nhìn người qua kẻ lại
trên đường ra chiều thích thú. Tôi cũng kéo ghế ngồi bên cạnh chị, chị hỏi han
đủ chuyện của Sài Gòn từ xe cộ tới đèn đường. Tùng bỏ đi đâu đó, trong nhà lặng
im. Có tiếng mẹ tôi ho khan từ trong, chị năm Thương đứng dậy đi vào. Nghe
tiếng ba tôi hỏi chị năm gì đó, tôi đứng dậy thì ông cũng vừa bước ra. Trời hâm
hấp nóng, tuy là cái nóng gượng cuối ngày nhưng vừa đủ làm oi bức. Ba tôi ngồi
xuống cái ghế chị năm ngồi khi nãy, tôi đứng tựa vào tường, bên khung cửa sổ.
Vẫn giọng nói ung dung thong thả, ông hỏi tôi đôi câu về chuyện học hành của
tôi và của Tùng cũng như đám bạn bè trong đó có cả Chiêu. Tuy cung cách ông
không khác xưa bao nhiêu nhưng cố nhìn kỹ thì ba tôi giờ đã già đi lắm rồi, tóc
ông bạc trắng không có một chút gì lấm tấm đen như trước ngày chú Hiếu mất.
Tùng trở lại nhà có Chiêu và Thảo Ly theo. Hai cô đẩy xe honda vào trong sân,
cúi đầu chào ông rồi đứng xớ rớ bên cạnh tôi chờ. Tôi đứng dậy kéo hai cô vào
trong nhà, Tùng ngồi xuống ghế. Chị năm liếc trộm Chiêu nhiều lần, mẹ tôi hỏi
han đủ thứ, tôi im lặng để mặc cho hai cô lời ra lời vào. Từ trong nhà thỉnh
thoảng nghe tiếng Tùng cười giòn giã.
Chiều xuống, trời bỗng dưng dịu hẳn, một
vài cụm mây xám dật dờ ờ phía bên kia sông, che vội che vàng đôi dăm ba sợi
nắng chiều về muộn. Cả nhà thả bộ ra cái quán cơm xích lô trên đường Cao Đạt mà
bọn tôi thường ăn, bà chủ tiệm thấy có người lạ chạy ra vồn vả chào, cũng như
thường lệ bà ghé tai nói nhỏ mấy câu gì đó với Chiêu rồi cười tũm tĩm. Ba tôi
mời Tùng ly bia, Tùng không dám chối từ năn nỉ tôi chia phân nửa. Mẹ tôi ăn
không nhiều nhưng bà vui ra mặt. Thấy bà vui tôi cũng vui lây. Chị năm cứ thong
thả ăn, nhìn người qua kẻ lại. Đêm đó, gần khuya Chiêu và Thảo Ly mới ra về,
tôi và Tùng ngồi lặng im trong bóng đêm trước hiên nhà, ngọn đèn đường vàng
trước căn nhà có cái truyền hình lớn vẫn lờ mờ như xưa, bên trong nhà đã có
tiếng người ngái ngủ. Hai thằng khẽ đẩy cửa vào. Trời vừa có đôi chút gió đêm,
hai ba con chó hoang sủa vài tiếng khô khan trên đường lớn. Xe vẫn còn chạy
ngoài phố dù là đã quá nửa khuya. Sài Gòn hình như chưa chịu ngủ.
Sáng chủ nhật, tôi đưa ba mẹ và chị năm ra
bến xe thật sớm vì ông bà muốn đi cho kịp chuyến xe đầu, giờ này đường xá vắng
tanh, phố phường lặng im lờ mờ trong màn sương cuối đêm lành lạnh. Gần nửa mùa
xuân rồi mà trời vẫn thường nắng muộn, ngồi chờ xe trong dãy quán cốc bên lề
bến xe, nhìn ba mẹ tôi thong thả hớp ngụm cà phê, hơi nóng bốc lên như khói cơm
chiều, chợt dưng tôi thấy thương làm sao cái hơi nóng mờ đục này trong những
ngày tôi còn nhỏ xíu ở Bến Cầu. Ba tôi có thói quen thức sớm, đốt ngọn đèn dầu
để trên cái bàn hương trước hiên nhà, rồi thả bộ qua cái quán hủ tiếu của chú
ba Xiêng ngồi uống cà phê với mấy người bạn già quanh xóm. Lần nào tôi thức sớm
thì ông dẫn tôi theo, tôi ngồi cái ghế cao kế bên, ông sớt chút cà phê sửa vào
cái ly nhỏ xíu, tôi vừa ăn khúc giò-cháo-quẫy nóng vừa uống cà phê ngon lành
cho đến khi dưới bến ghe cuối chợ người buôn người bán bắt đầu nhóm và cũng là
lúc mặt trời chầm chậm hé lên ở phía bên kia biên giới. Bàn bên cạnh anh tài xế
và mấy người lơ xe cũng vừa ăn uống xong, tay mồi thuốc lá miệng mời gọi hành
khách lên. Xe từ từ ra bến, quẹo hướng bồn binh ngã sáu, đèn đường giờ này cũng
vừa tắt, chị năm Thương ngồi phía cửa sổ xe vói tay vẫy chào đôi ba cái. Tôi
đứng đó nhìn theo cho đến khi chiếc xe đò khuất mất sau dãy nhà lầu đầu công
viên, chiếc xe buýt sớm vừa ngừng ở trạm bên kia đường, công nhân làm ca đêm
xuống đông nghẹt bên lề. Tôi lửng thửng đi bộ về nhà làm quen với sáng Sài Gòn
xem sao nhất là một sáng chủ nhật, dù là từ đây mà về tới chợ Nancy không phải
là gần.
(Còn
tiếp)
No comments:
Post a Comment