Chín nén nhang cho gia đình Trung Tá Đặng Sĩ Vĩnh
Cuối tháng Tư năm nay, ba mươi
năm sau ngày Sàigòn sụp đổ. Đối với tôi, ở tuổi 11 vào năm 1975, tôi còn nhỏ.
Xã hội quanh tôi cũng nhỏ: gia đình, vài đứa bạn tiểu học, hàng quán quanh nhà,
chợ Ông Tạ, nhà thờ An Lạc, nhà thờ Nam Thái, trường Bắc Hải… Vậy thôi! Thế
nhưng cái xã hội nhỏ và đơn giản của tôi phải mang một dấu ấn sắc, nhọn, nhầy
nhụa, dã man. Ba mươi năm sau “ngày ấy”, tôi viết lại câu chuyện này để một lần
nhìn vào dấu sẹo trong tâm hồn mình. Viết để lý giải về nó một cách bình tĩnh
và trưởng thành hơn. Viết để nói với những người đã đem đến cho tôi kinh nghiệm
kinh khủng đó. Nói chung, viết là lối giải tỏa tâm lý ẩn ức của người viết.
Ngày 30/4/1975, lời tuyên bố
đầu hàng đã truyền đi. Lá cờ tai họa đã bay trên Dinh Độc Lập. Bố tôi từ Tổng
Cục Chiến Tranh Chính Trị về nhà. Mắt ông đỏ tia máu. Trước nhà tôi, những
người lính cởi trần ngồi lề đường khóc. Họ chửi rủa rằng họ bị phản bội, bị bỏ
rơi. Họ nói đến chuyện tự tử để không thẹn với hồn thiêng sông núi. Có cái gì
đó khủng khiếp khi những người đàn ông khóc. Hàng xóm súm lại an ủi họ.
Trời chang chang nắng đổ. Súng
ống quân phục đầy đường từ Ngã Tư Bẩy Hiền vào Lê Văn Duyệt. Tiếng súng do bọn
thanh thiếu niên hoang loạn bắn từ vũ khí vương vãi trên hè phố nổ rền suốt mấy
giờ liền. Đến khoảng 2 giờ chiều chỉ còn lác đác tiếng súng ở xa. Nỗi hoang
mang tiếp tục gia tăng khi người ta bắt đầu nhìn thấy những người lính miền Bắc
đeo ba-lô, đi dép râu, mặt mũi lơ láo, lạ lẫm bắt đầu đi vào con đường hẻm. Bất
thình lình, trong cái oi bức, ngột ngạt của không gian, trong cái căng thẳng
kinh hoàng của đầu óc, có những tiếng súng nhỏ vang lên trong một căn nhà.
Những tiếng súng ấy nhỏ và
không vội vã như người ta bắn qua lại khi giao tranh. Những tiếng súng ấy bình
tĩnh, cách nhau đều đặn. Chúng vang lên một cách chắc chắn, chắc chắn như quyết
định của người nổ súng. Đó chính là tiếng súng mà Trung Tá Đặng Sĩ Vĩnh đã nổ
để kết liễu mạng sống của cả gia đình gồm vợ với bảy người con và chính bản
thân ông.
Tôi nhớ, trước đó, khoảng cuối
năm 1974, Trung Tá Đặng Sĩ Vĩnh bán căn nhà trong Cư Xá Sĩ Quan Bắc Hải và dọn
về ngôi nhà nhỏ xinh cách nhà tôi khoảng mười căn. Ngôi nhà màu xanh lá cây,
cổng gạch trắng, không có garage đậu xe, mang số 98/39 đường Phạm Hồng Thái,
Gia Định, thuộc Ấp Hòa Bình, quận Tân Bình. Đường hẻm lớn này thường được gọi
là Hẻm Con Mắt, Khu Ông Tạ. Ngôi nhà nay là 98/39 Cách Mạng Tháng Tám, quận 5,
Tân Bình.
Trung Tá Vĩnh thường mang xe
sang gởi tại sân nhà ông Năm Châu xế cửa. Đó cũng là nơi tôi nhìn thấy Trung Tá
lần cuối khi ông còn sống.
Bà Trung Tá Vĩnh tên tục là
Trần Ánh Nguyệt, chị kế của phu nhân lão thi sĩ Hà Thượng Nhân. Ông bà từng làm
chủ một nhà in. Ông tốt nghiệp khóa 3 Trường Sĩ Quan Trừ Bị Thủ Đức năm 1953.
Năm 1954, theo vận nước, ông bà Vĩnh vào Sài Gòn.
Ông bà có tất cả bảy người
con. Người con cả, anh Đặng Trần Vinh, sinh năm 1948. Hai cô con gái út là một
cặp sinh đôi, khoảng 15 tuổi vào năm 1975.
Trung Tá Vĩnh tùng sự tại
Phòng Nhì Bộ Tổng Tham Mưu và sang làm việc tại Tổng Nha Cảnh Sát Quốc Gia từ
cuối thập niên 1960. Theo thi lão Hà Thượng Nhân, ông Vĩnh là người rất hiền
từ. Một số quí vị đã có dịp làm việc với ông Vĩnh cũng đồng ý như vậy. Theo các
vị này, ông Vĩnh không hề cau có, cãi cọ với ai bao giờ. Ông điềm tĩnh và nhân
hậu.
Trong ký ức tuổi thơ của tôi,
ông Vĩnh lúc ấy 56 tuổi mà còn phong độ. Gặp bố tôi, ông trao đổi một vài câu
chuyện với giọng thật hiền hòa, thân thiện. Anh Vinh, con ông lúc ấy 27 tuổi.
Hai cô em gái sinh đôi của anh thường đùa nghịch cười rúc rích. Họ đồng tuổi
với chị Trang của tôi. Da trắng, tóc dài, đen nhánh, buộc bằng nơ đỏ và xanh
dương.
Âm thanh và hình ảnh của gia
đình Trung Tá Đặng Sĩ Vĩnh, nếu chỉ có thể trong tôi, đã không trở thành ký ức
kinh hoàng. Ký ức đó chỉ một thời gian ngắn sau, đã bằng những tiếng súng
chuyển thành kinh hoàng.
Bố tôi nói buổi trưa ngày
30/4/1975, khi nghe tiếng súng: “Chắc bác Vĩnh tự tử rồi!”. Mắt ông vẫn đỏ tia
máu. Tôi dư biết ông có khẩu súng lục và một trái lưu đạn trong ngăn kéo trên
lầu. Bố tôi không nói gì nữa. Ông ngồi đó mà không ăn trưa, hai mắt lừ lừ.
Tôi không tin lời bố tôi nói.
Một đứa 11 tuổi chưa đủ khả năng để lượng định những áp lực tinh thần đang đè
nặng trên vai kẻ sĩ trong lúc đất nước rơi vào tay giặc. Thật sự, dù có tin,
tôi cũng không nghĩ đến cái chết của người khác vào lúc đó. Nhưng tôi sợ cái
chết của bác Vĩnh và cả nhà sẽ khiến bố tôi quyết định cùng gia đình chọn cái
chết hơn là sống với chế độ Cộng Sản.
Mẹ tôi lo ngại, lén lấy súng
lục và lựu đạn của bố gói trong bao vải ném xuống kinh Nhiêu Lộc. Mẹ tôi chỉ
nói ngắn gọn với bố: “Anh muốn làm gì cũng phải bàn với cả nhà, nhất là với mẹ,
người sinh ra anh trên đời này”. Bà tôi thấy vậy cũng sợ, bắt chúng tôi bốn đứa
âm thầm thay phiên nhau canh chừng bố. May thay sau đó bố tôi đã thoát được
những ám ảnh từ gia đình bác Vĩnh.
Từ nơi tôi đứng có thể nhìn
thấy bàn ăn. Thức ăn còn đầy trong đĩa, trong bát. Những ly nước trên bàn còn
một nửa. Mỗi ly đều có một lớp đầy cặn màu trắng. Bác Vĩnh có để lại một lá thư
cho ông Đặng Sĩ Toản, anh trai của bác. Trong một lá thư ngắn khác, bác có lời
xin lỗi hàng xóm vì quyết định của gia đình bác có thể làm phiền lòng họ. Bác
còn xin họ giúp báo tin cho thân nhân của bác để lo chôn cất. Bác cho biết bác
còn một ít tiền để trong ngăn kéo.
Ngay buổi tối hôm bác Vĩnh
cùng gia đình ra đi, bọn du thủ du thực trong ấp đã cạy cửa vào lục lọi khắp
trong nhà bác và lấy hết tiền bạc cùng những gì chúng tìm thấy trước khi thân
nhân đến nơi.
Hàng xóm đã làm theo lời bác
yêu cầu. Họ báo với ông Đặng Sĩ Toản. Ông Toản báo với bà Hà Thượng Nhân. Chính
bà Hà Thượng Nhân đã cùng chị là bà Chấn, chị dâu là bà Tâm, em gái là bà Viên,
làm tang lễ vội vàng tiễn đưa gia đình bác Vĩnh ra nghĩa trang Chí Hòa ngày hôm
sau.
Quanh xóm tôi, người ta đoán
gia đình bác Vĩnh đã uống thuốc ngủ hoặc một chất độc vì nhìn thấy nhiều cặn
màu trắng trong những ly nước. Người ta đoán bác Vĩnh là người cuối cùng ra
khỏi cuộc đời vì xác bác nằm không ngay ngắn.
Còn tôi, tôi lạnh người trong
nhiều năm mường tượng về giây phút cuối cùng của gia đình bác Vĩnh. Tôi thắc
mắc đủ điều. Ai là người xướng ra đề nghị cả gia đình cùng tuẫn tiết? Tôi cứ
cho rằng chỉ có thể là bác Vĩnh hay anh Vinh. Nhưng bác Vĩnh hay anh Vinh?
Người hiền như bác Vĩnh sao đi đến quyết định như vậy? Bác Vĩnh hay anh Vinh có
bàn thảo với bác Vĩnh gái trước không? Có nói gì với những người còn lại trong
gia đình không? Nói thế nào? Nếu có nói, làm sao có thể thuyết phục người khác
cùng chết với mình? Thuyết phục bằng nỗi sợ Cộng Sản? Thuyết phục bằng tình gia
đình sống chết có nhau? Thuyết phục bằng lý tưởng không đội trời chung với Cộng
Sản? Nếu bác Vĩnh là người ra đi cuối cùng, bác nghĩ gì vào giây phút ấy?
Sau này, người ta lấy nhà bác
Vĩnh làm hợp tác xã, rồi phường đội, v.v… Những ai ngủ tại đó không bao giờ dám
tắt đèn. Tôi nghĩ bác Vĩnh hiền thế, dọa họ làm chi. Tôi lại ước bác Vĩnh hay
các anh chị con bác trở lại thế gian này khóc lóc như những vong hồn thác oan.
Với riêng tôi, nếu có thể, hình ảnh gia đình bác không ám ảnh tôi. Thì ít nhất
họ cũng thường tình: chết mà không muốn chết nên hiện về phá phách. Nhưng
không, chẳng có ai hiện về. Chín thành viên gia đình bác Vĩnh tự tử mà như bằng
lòng với chọn lựa của mình. Họ chết cái chết can đảm và chính trực.
Nhưng tại sao người chính trực
phải chết thảm cả gia đình? Tiếng súng của gia đình bác Vĩnh từ đó cho tôi cái
nhìn trần tục hơn về xã hội chung quanh. Lý giải về người hiền người ác không
chỉ có trong cổ tích trời giúp kẻ hiền lương. Nếu trời luôn giúp kẻ hiền, sao
cả gia đình bác Vĩnh chỉ còn một đường chết? Niềm tin của tôi không có chỗ dựa
vững chãi: Thượng Đế tạo ra con gà, con thỏ xinh xinh, rồi lại tạo ra con cọp,
con cáo làm gì? Tôi xét đoán về người đối diện một cách dè dặt hơn, bởi có ai
đoán nổi quyết định của bác Vĩnh? Bác Vĩnh hiền còn dám thế, người hung hãn sẽ
bán cả trời khi uất hận!
Tôi gõ cửa nhà ông bà Hà
Thượng Nhân tìm một giải tỏa cho nỗi ám ảnh của mình. Tôi viết như viết tâm sự
của mình khi kể lại chuyện thương tâm của gia đình Trung Tá Đặng Sĩ Vĩnh. Hình
ảnh anh Vinh và hai chị sinh đôi cùng bốn anh chị em còn lại mặt trắng bệch,
mắt nhắm nghiền, máu chảy thành vũng từ thái dương, tóc bay lơ thơ dưới quạt
trần, từ nay xin là những đau thương của quá khứ. Chính từ những đau thương ấy,
xin cho hiện tại được chăm chút trân trọng hơn. Xin cho tương lai được coi là
quan trọng hơn hết khi kính mến những hy sinh, khổ sầu của người đã chết vì vận
nước.
Xin thắp một nén nhang cho mỗi
người trong gia đình trung Tá Đặng Sĩ Vĩnh. Xin gửi lời người đã khuất cầu
nguyện cho đất nước, và cho chính tôi được nhẹ nhàng.
Hà Nhân
(Bút ký của Nguyễn
Hà Tường Anh)
304Đen - Llttm
No comments:
Post a Comment