ĐÊM XUÂN NÀOTÔI ĐẾN THĂM ANH
Được
Ơn Trên đãi ngộ sống trong xã hội miền Nam tự do. Nhờ sự chăm sóc của gia đình,
nên các thanh niên, thiếu nữ thời đó sung sướng cắp sách đến trường với tâm hồn
trong trắng, với những ước mơ, những hoài bão về tương lai sáng lạng của đời
mình. Và họ nhìn cuộc đời bằng cặp mắt kiếng màu hồng thắm. Họ vô tư chăm lo
học hành, tâm hồn thản nhiên không biết gì, và cũng không nghĩ ngợi gì đến giặc
giã, chiến tranh. Nhưng ven đô quanh thị thành vùng họ đang sống đã sụt sôi
cuộc nội chiến Quốc Cộng, đẫm máu, tang thương kéo dài không biết chừng nào mới
hết và không biết đất nước sẽ đi về đâu?
Có những
đêm trường, đứng trên gác nhà nhìn thấy ánh hỏa châu vàng úa từ các máy bay rơi
rơi sáng cả một vùng trời xa. Tiếng súng lớn, súng nhỏ lạch tạch đều tai như
pháo nổ. Rồi xen kẻ lác đác tiếng đại bác ì ầm. Những cuộc phá rối trị an của
giặc ở chỗ đông người như chọi lựu đạn nơi rạp hát, đắp mô trên đường lộ để cản
trở sự lưu thông. Độc hại hơn, giặc còn gày mìn giựt xe đò, pháo kích vào
trường học, nhà thương, giáo đường…“Chiến
tranh nào mà không tan nát?” Phải, có chiến tranh nào không có thương vong?
Không nhà tan cửa nát? Và trong hoàn cảnh dầu hôi lửa bỗng đó, có biết bao
nhiêu học sinh, sinh viên, thanh niên hào kiệt, đã thức thời xếp bút nghiên
theo việc kiếm cung, để tình nguyện vào quân ngũ. Họ được tôi luyện trong thao
trường đổ mồ hôi để cho chiến trường bớt đổ máu… Họ trở thành những người lính
Cộng Hòa không nề hà gian nguy hiểm trở, hiên ngang quyết tâm hiến dâng đời
mình cho sự an nguy của gia đình và gìn giữ cõi bờ cho Tổ quốc?
Thuở đó,
vào những buổi chiều tan trường nhứt là chiều thứ sáu, những ngày lễ lớn như là
Ngày Quân Lực, ngày Quốc Khánh… Trước cổng trường Trung học nữ, các nẽo đường
phố phường, trong các tiệm ăn, công viên… Màu cờ sắc áo phấp phới loang loáng
dưới nắng đẹp Miền Nam. Những tà áo trắng quyện theo màu áo trận của các binh
chủng còn vướng bụi đường xa, bụi chiến trường, mùi nắng khét, mùi thuốc súng…
Đôi khi trong những dịp nầy còn có những buổi tiệc thết đãi các chiến binh của
công tư sở. Các buổi tiệc gia đình tổ chức riêng rẽ long trọng như lễ đính hôn,
đám cưới… Tất cả, tất cả đã nói lên lòng biết ơn và niềm yêu thương nồng đậm
của người hậu phương dành cho người ngoài tiền tuyến.
- Tịnh An! Tịnh An.
Cô mở to
mắt ngơ ngác nhìn quanh tìm kiếm coi từ đâu, và ai đã gọi tên mình? Bởi sáng
sớm hôm nay nơi gốc Đại lộ Hòa Bình và đường Ngô Quyền. Bên kia Tổng hành dinh
của Quân Đoàn Bốn, xéo bên trái là gốc đường Phan Đình Phùng. Trước dinh Tỉnh
Trưởng là chỗ đặt lễ đài. Ở đây là trọng điểm đông người nhứt trong ngày Quân
Lực của Tây Đô. Ngày đại lễ mà hầu hết đại diện các binh chủng, công tư chức
các cơ sở, học sinh, sinh viên, dân chúng trong thành phố. các viên chức ở
quận, làng xã về tham dự. Dân cư tha hồ chiêm ngưỡng cuộc diễn hành của những
đoàn dân, quân, cán, chính oai hùng, những đoàn thiết giáp, pháo binh, phi cơ
chiến đấu, những đội người nhá tinh nhuệ...
Tịnh An
còn đang dáo dác kiếm tìm thì giọng nói kia lại nổi lên:
- Em làm gì mà đứng đó vậy? Tú Huệ đâu?
Đi thong
thả gần tới bên Tịnh An là một thanh niên thanh tú. Anh ta có dáng dấp khỏe
mạnh, cao lớn hơn những thanh niên bình thường. Cái cười nửa miệng để lộ chiếc
răng duyên ở hàm trên bên phải là lợi điểm cho đương sư dễ gây cảm tình với
những người đối diện, nhứt là phái nữ. Giầy cao ống, nón và bộ phi hành màu xám
bạc làm tăng thêm vẻ hiên ngang hùng dũng của chàng lính tàu bay ở binh chủng
Không quân. Tịnh An nhìn qua đối diện bên kia đường sát bờ lộ, ngồi nơi tay lái
chiếc xe jeep đang nổ máy như đợi chờ. Cô thấy anh Tú Nghĩa mỉm cười vẫy tay
chào. Cô gật đầu chào lại. Tịnh An còn đang lúng túng ngượng ngập khi Tú Tâm
đứng trước mặt nhìn cô mỉm miệng cười.
Thật là
vô duyên hết chỗ nói! Tại sao cô cảm thấy mắt môi, má mình nóng ran như vậy?
Anh ta đến chào hỏi thôi chớ có gì đâu mà ngượng ngùng lính quýnh lên như thế?
Có phải đây là tà tâm của con bé sắp bước vào ngưỡng cửa yêu đương? Xì! Ai mà
biết được! Nhưng cô cố trấn tình mình, rồi thỏ thẻ trả lời:
- Dạ chào anh Tú Tâm, anh về hồi nào vậy? Em
nghe nói anh đi công tác ở đâu đó mà?
Chao ôi,
thiệt là mắc cỡ muốn chết được! Cô mới mở miệng nói đến đó thì từ đâu không ai
gọi mà tới, không ai hỏi mà thưa! Con thần nanh mõ đỏ Thu Nhi xẹt đến đứng giữa
hai người.
Nó lém
lĩnh nheo mắt chào anh, rồi lôi cô ra xa tra khảo:
- Ê con yêu lồi, bồ mầy đó hả? Bô giai quá đi!
Không quân thì Chánh phủ đã lựa sẵn rồi! Mầy sáng mắt thật. Sao tham lam quá
chừng vậy? Ở đâu mà vớt được 2 thằng một lúc vậy mậy?
Tịnh An
bấu mấy móng tay vào tay bạn thật mạnh. Con nhỏ đau điếng nhảy cỡn lên mà không
dám la. Mắt liếc về phía anh Tú Tâm, Tịnh An nhăn mặt nhỏ giọng bảo cô ta:
- Bồ hồi nào? Bộ mầy điên rồi hả? Nói xàm không
hà! Anh của nhỏ Tú Huệ đi kiếm nó đó. Mầy có thấy nó đâu không?
Con trời
đánh Thu Nhi có phổi bò, rống lớn họng như muốn cả làng cả nước nghe:
- Thôi đừng có làm bộ chối nghen mậy! Anh của
nhỏ Tú Huệ là bồ của mầy. Mầy mà nói không phải nữa, tao sẽ kêu gọi lũ bạn câu
thằng chả mất thì đừng có khóc hu hu lấy mấy cái lu đựng nước mắt đó nghen.
Con mắc
toi đó nói xong cười ha hả rồi lẫn mất dạng trong làn sóng người sau buổi tan
lễ đông như kiến cỏ. Phải nói là dập dìu tài tử giai nhân mới đúng! Bởi trên
khắp các nẽo đường của thành phố các anh lính oai hùng đại diện các binh chủng
về dự lễ: Hải quân, Dù, Cảnh sát, Không quân… Địa phương quân, Nghĩa quân,
Chiến tranh chánh trị, Sư đoàn 21, SĐ 7, SĐ 9, Biệt động quân… Mỗi binh chủng
có mỗi màu cờ, sắc áo, quân hiệu riêng biệt điểm trang thêm sắc thái huy hoàng
sinh động cho Tây Đô hôm nay. Anh Tú Tâm miệng cười chúm chím, mắt sáng ngời lí
lắc nhìn sâu vào mắt Tịnh An như ngầm hỏi cô bạn đó đã nói gì? Tịnh An cúi mặt
bẽn lẽn. Giọng lăng líu của con Tú Huệ bỗng vang lên:
- Ủa, anh Ba về hồi nào vậy? Chớ không phải hai
anh đã đi công tác ngoài Trung hôm qua sao?
Anh ta
cười hóm hỉnh trả lời em gái:
- Hôm qua khác với hôm nay. Hôm qua làm xong
rồi thì hôm nay về đó cô Tư.
“Tú Huệ,
Tú Huệ…” Nghe tiếng anh Tú Nghĩa gọi, con nhỏ cười tòe cái miệng, mắt láo liên
chạy băng qua đường rồi nhảy phóc lên xe ngồi vào chỗ bên kia. Lớn họng:
- Hai người đi bộ về nghen, tui với anh Hai về
trước đó. Xin chào, “báy bay…”
Anh Tú
Tâm cười tươi, nhỏ giọng:
- Thôi chúng ta đi Tịnh An. Xem các cô các cậu
nhìn em kìa! Coi bộ em có nhiều bạn bè quá hả?
Tịnh An
lấy lại bình tĩnh, mạnh dạn bảo:
- Anh cũng biết thành phố Cần Thơ tuy rộng
nhưng vẫn nhỏ bé. Chạy xe đạp chừng 2 giờ là đi hết các con đường ở đây rồi. Vả
lại…
Cô ngập
ngừng rồi yên lặng. Tú Tâm nheo mắt cười:
- Vả lại thế nào? Sao em không nói tiếp?
-
Tại có anh đi bên cạnh. Các cô không phải nhìn em, vì chúng em đã gặp
nhau ở trường ở lớp hàng ngày quen mắt rồi. Họ nhìn anh đó...
Mắt anh ta chớp nhẹ:
-
Thật vậy sao?
Tịnh An không trả lời. Hai người
sóng đôi đi bên nhau. Đại lộ Hòa Bình chan hòa ánh nắng. Gió chập chờn mơn mang
trên mái tóc huyền óng mượt còn phản phất mùi bồ kếp gội đầu của Tịnh An. Tà áo
trắng của cô tung bay trong nắng thủy tinh lung linh. Trời cao vòi vọi và xanh
thẳm một màu. Màu hy vọng của nam nữ ở lứa tuổi thanh xuân đang yêu và được
yêu.
Bước
ra hàng hiên, nhìn xuống chiếc băng cây trên bờ sông. Tú Huệ thấy Tịnh An đôi
mắt mơ màng nhìn dòng nước chảy. Ánh nắng loang loáng phản chiếu mặt nước sông
lăn tăn sóng vỗ chập chờn rọi trên dáng dấp mảnh mai của bạn. Tú Huệ chép
miệng: “Ôi huyền sử nàng Tô Thị chờ chồng hóa đá, hình ảnh đẹp lắm cũng chỉ vậy
thôi!” Cô đến đứng sát bên bạn mỉm cười, nhẹ giọng:
- Mầy làm gì thừ người ra vậy?
Tịnh An nén tiếng thở dài, trớ đi:
-
Những ngày cận Tết ở thôn quê rộn ràng, sinh động nhưng êm đềm quá hả Tú
Huệ? Mầy có nghĩ ngày nào sẽ về đây sống không? Dù gì ở gần họ hàng bà con vẫn
hơn. Lâu nay có được tin gì của anh Tú Nghĩa không? Ảnh rời nước đi tu nghiệp
khoảng thời gian trước giặc vào thật là may mắn! Phải chi anh Tú Tâm!
Cô khựng lại, rồi buông thỏng câu
nói, trên bờ mi cong hình như vương màn lệ! Hồi tưởng dấu yêu xa xưa dạt dào
sống lại trong lòng cô: Đã một năm, rồi hai năm… Tịnh An đã sống trong thương
nhớ và mõi mòn chờ đợi anh. Nhưng bóng người yêu vẫn biền biệt. Dần dần, bây
giờ thì niềm tin đó gần như tuyệt vọng!
Cô vẫn
nhớ Tết năm nào, má anh, anh Tú Nghĩa, Tú Tâm, và Tú Huệ qua thăm gia đình. Hai
bên cha mẹ hứa cho anh Tú Tâm và cô tới lui thăm viếng gia đình hai bên. Và mùa
hè năm tới họ sẽ chính thức đính hôn rồi lễ cưới sẽ được tổ chức sau khi cô thi
Tú tài hai…
Đôi trai
tài, gái sắc nầy đã có thời gian giun giăn giun giẻ bên nhau. Muôn vàn thương
mến trong những ngày anh nghỉ phép. Những lần vui mừng không hẹn anh đến thăm
bất chợt. Thấp thỏm đợi chờ âu lo trong những chuyến công tác xa. Giữa đêm về
sáng cô nghe tiếng phi cơ trên không gian, hỏa châu soi sáng cả góc trời, tiếng
đạn pháo ì ầm xa xa… . Nỗi buồn, vui, lo, sợ… chợt đi chợt đến đó là mật ngọt
thấm đậm ướp vào lòng cô. Hình như đó cũng là mật ngọt tình yêu của các thiếu
nữ có người tình là lính chiến. Dù biết rằng “Làm người yêu lính chiếnlà chấp nhận xa nhau, chấp nhận thương đau...”
nhưng thời bấy giờ các nữ sinh, các cô gái đến tuổi lập gia đình đã thầm ước
mơ.
Thế
rồi ngày 30 tháng 4 năm 1975. Giặc Cộng cưỡng chiếm miền Nam! Anh Tú Nghĩa kẹt
ở xứ người. Anh Tú Tâm bặt vô âm tích. Mỗi lần gặp Tịnh An má anh chan hòa dòng
lệ nhớ thương con. Thành phố Tây Đô tan tác, dân Tây Đô héo xào… Gia đình mẹ
con Tú Huệ sa sút vì khổ đau, thương nhớ và công ăn việc làm như không còn nữa.
Trong
mấy năm nay sau giặc về, gia đình Tịnh An cũng không có Tết. Má cô chết tức
tưởi sau lần đánh tư sản đợt đầu vì vườn đất, nhà cửa bị giặc cướp sạch... Buồn
rầu quá đổi, mấy tháng sau cha cô lâm trọng bịnh cũng qua đời.
Đêm đêm
nghe lén đài VOA, biết được người dân miền Nam vượt biên càng lúc càng đông.
Anh Hai của Tịnh An trước kia làm ở Quân Đoàn IV. Sau ngày bọn giặc vào anh
không ra trình diện mà trốn về quê vợ ở Cà Mau. Nay họ quyết định tìm đường để
ra đi.
Mấy
tháng gần đây, Tịnh An nhận xét thấy bà già và Tú Huệ như hồi sinh trở lại? Bác
cười nói vui vẻ, còn cô ta thì tía lia như con chim chích chòe thuở nào. Tịnh
An cũng vui lây và nghĩ rằng chắc là họ được tin anh Tú Nghĩa bên Mỹ. Mấy tuần
trước Tết, Tú Huệ rủ Tịnh Yên về quê ngoại ở bên kia sông Mỹ Thuận (thuộc lãnh
thổ Định Tường) ăn Tết. Lúc đầu Tịnh An từ chối. Nhưng nghĩ lại có lẽ đây là
cái Tết sau cùng của cô trên quê hương! Có dịp ở bên bạn thân đôi ngày trước
khi ra đi cũng nên lắm. Vì thế hôm nay hai cô mới có mặt ở vùng quê nầy.
Dòng hồi
tưởng của cô vụt bay mất, vì giọng nói lanh lãnh của nhỏ Tú Huệ khiến cô quay
về thực tế:
- Tao đứng sau lưng cả buổi mà mầy không hay
biết chi ráo. Tao tưởng mầy đã hóa đá rồi chớ? Hỏi thiệt nghen Tịnh An, có phải
mầy dang nhĩ ngợi và nhớ anh Tú Tâm của tao không?
Dòng
nước mắt chảy dài xuống gò má trắng xanh như thay câu trả lời của bạn, làm Tú
Huệ lính quính. Trời ơi, nếu giặc không vào thì cô ta đã trở thành chị dâu mình
rồi! Cảm thấy lòng áy náy, vì mấy tháng nay cô đã giấu giếm bạn nỗi niềm thầm
kín ở trong lòng! Cô bước tới, nhìn sâu vào mắt Tịnh An chăm chăm như muốn nói
điều gì đó. Nhưng giọng mợ Út gọi ăn cơm. Tú Huệ khựng lại, hai cô ngần ngừ rồi
lửng thửng đi vào nhà.
Mâm cơm đã dọn sẵn. Nào cá mè vinh
kho ngót vắt chanh, trên mặt tô loang loáng những chùm sao mỡ hột ớt cùng mùi
hành, ngò rí, tiêu cay. Tép lóng dở chà hồi sáng sớm, được lột vỏ rim mặn một
mớ, còn một mớ xào với đậu rồng. Cá thác lác ngộp vì chúng lủi trốn trong sình
non. Mợ Út muối xã ớt chiên giòn màu vàng sặm trên một dĩa lớn. Kia, còn có cá
bống tượng chưng nấm mèo, bún tàu, củ hành trong cái tô sành lớn nữa.
Thấy tôm
cá ê hề, nhưng lòng đang buồn nên Tịnh An trầm ngâm không nói. Còn Tú Huệ miệng
cười tươi như mấy nụ hồng nhung hé nở trong chậu ngoài hiên nhà. Cô líu lo:
-
Gạo nàng hương thiệt nấu cơm vừa dẽo vừa thơm lại trắng bông. Cơm nầy mà
ăn với nước mắm dầm ớt cũng ngon chớ đừng nói chi các món đầy cá tôm như vầy.
Sao mợ Út nấu nhiều món ăn chẳng khác đám giỗ nhỏ chút nào vậy? Chỉ hai món kho
và mặn là đủ rồi. Thời buổi nầy phải tiết kiệm mới được mợ ơi.
Mợ Út nhìn cô cháu chồng cười, hiền
lành:
-
Mấy thuở các cháu về đây vui xuân với cậu mợ? Chiều cúng rước Ông Bà về
ăn Tết còn có nhiều món ngon hơn nữa đó.
Con nhỏ ham ăn cười híp mắt. Cậu Út
ôn tồn:
- Đúng như vậy! Mấy thuở cháu về ăn Tết, còn có
cô cháu dâu tương lai đây nữa. Phải như lúc xưa thì cậu mợ sẽ làm tiệc lớn.
Thời buổi bây giờ khó khăn, không cho phép. Tôm cá nấu các món ăn đây là hồi sáng
dở chà bắt được chớ có mua sắm chi đâu. Một mớ còn rộng ngoài khạp kia, ăn qua
Tết cũng không hết. Mong bữa cháu về cá tôm còn sống để mợ Út gởi về cho má
cháu.
Tú Huệ và cơm đầy họng nên không mở
miệng được, tay quơ quơ ra hiệu. Nuốt xong miếng cơm, cô nói:
- Thôi cậu ơi, gởi bánh trái cho má cháu được
rồi. Cá tôm xách về tới nhà cũng chết cống hết. Cháu không xách đâu.
Mợ Út cười:
-
Tú Huệ đừng lo, mợ có cách giữ cho cá sống xách về đến nhà cho má cháu
mà không chết. Và cháu cũng không phải xách bằng thùng thiết có đựng nước lỉnh
kỉnh đâu mà sợ. Cháu không biết chớ cá lóc, cá trê, cá rô… Các loại cá đồng mùa
nầy mạnh lắm nên dễ gì chết!
Sau bữa ăn cúng rước Ông Bà thì gia
đình hai đứa con trai dâu, 4 cháu nội. Vợ chồng đứa con gái và hai cháu ngoại
ai về nhà nấy. Anh em họ kẻ ở xóm trong, người ở cuối thôn… quanh quẩn trong
làng không xa chi mấy. Mỗi đứa con về, mợ Út đều cho bánh phồng, bánh tráng,
chuối khô, mỗi người một trái dưa hấu Bến Lức có vỏ xanh ruột đỏ lòng son, giòn
và ngọt nổi tiếng đó đây… Mà mợ đã cụ bị sẵn sàng đâu đó rồi. Mợ còn dặn hai
con dâu chiều mai lại phụ mợ gói bánh tét.
Và khi
người con lớn đẩy xuồng dang xa bờ. Mợ nói vói theo:
- Nè, nhớ sáng mùng ba phải đến sớm để đưa ba
bây đi thăm ruộng đó nghen....
Anh ta gật đầu cho mẹ biết rằng mình
đã nghe và hiểu. Chiếc xuồng nhỏ chồng ngồi ở lái, vợ anh ở mũi xuống. Hai đứa
con ngồi giữa, đứa lớn chừng 5 tuổi ôm ngang lưng em mới lên 2. Thằng bé ôm
chắc em giữ cho con nhỏ ngồi yên để cha mẹ yên lòng mà bơi đi. Chiếc xuồng nhẹ
nhàng lướt êm trên dòng nước xanh lơ, trong vắt. Sóng đánh bập bềnh lả chả vào
mạn xuồng và vỗ vào bờ đất chạy dài quanh co uốn theo dòng sông dài.
Chiếu
tối, cậu Út đốt đèn ống khói có bóng cao đặt trên bàn ở giữa nhà. Chuẩn bị cúng
nước và chờ đón giao thừa coi năm nay nhà cậu con gì ra đời? Thôn dân rất tin
tưởng sau đồng hồ gõ 12 tiếng (giao thừa) thì chủ nhà lắng nghe coi nghe tiếng
con gì. Sau Tết họ sẽ nhờ thầy bàn với tuổi của gia chủ coi trong nhà năm đó có
làm ăn phát tài, gia đạo ra sao…
Trên mặt
tủ thờ có hai dĩa ngũ quá lớn, có bình mai nở vàng cạnh bên những quả bánh,
mức, những gói trà Tàu, mấy chai rượu còn gói giấy hồng đơn hoặc giấy kiếng đỏ
là quà Tết của các con đem qua biếu cha mẹ. Trong khay có những lá trầu vàng
non nhẫn nằm cạnh mấy trái cau chẻ làm tư, ruột trắng, dầy cơm. Những cái chun
nhỏ được rót rượu lưng lửng để cúng. Trên các bàn thờ Phật, thờ Ông Bà đèn sáng
trưng, nhang khói nghi ngút. Ngoài bàn thờ ông Thiên ở cửa lớn trước sân nhà
cũng hương trầm tỏa bay.
Tú Huệ
mắt nhìn lên bàn thờ, hỏi:
-
Cháu ngạc nhiên, sao các bàn thờ vẫn cứ thắp nhang liên tiếp? Mình đã
cúng rước Ông Bà rồi mà cậu Út?
Cậu bảo
với cháu:
- Theo tục lệ từ xưa để lại. Sau khi cúng rước
Ông Bà về ăn Tết với cháu con thì không nên để nhang tàn, bàn thờ lạnh lẽo.
Phải thắp nhang, thắp trầm hương tỏ lòng tôn kính, vui mừng niềm nở của con
cháu. Như vậy không khí trong gia đình những ngày Tết mới ấm cúng, và năm mới
sẽ được may mắn hơn năm cũ đó. Nếu cháu ra ngoài sân, đứng dưới gió sẽ ngửi
được mùi hương trầm, trà, hoa, quả, kẹo bánh… Bay sang từ nhà nầy qua nhà khác,
từ xóm nọ qua xóm kia, từ làng nầy qua làng khác. Miền Bắc theo chế độ Cộng Sản
vô thần thì cậu không biết, chớ ở miền Nam của chúng ta ngày trước từ Bến Hải
cho đến Cà Mau dù có nghèo đi nữa. Nhưng ba ngày Tết khói nhang nghi ngút tươm
tất lắm. Thiệt là thiêng liêng và ấm cúng vô cùng!
Sau ngày giặc Cộng cưỡng chiếm quê
hương. Suốt dãi quê Nam lễ cúng lớn của dân tộc như ngày Tết, Giáng Sinh,
Thượng Nguơn, Trung Nguơn, Hạ nguơn… Không còn cúng quảy, hội hè long trọng,
tôn nghiêm, vui tươi, náo nức như hồi trước nữa. Có còn chăng chỉ âm thầm riêng
rẽ thu gọn từ trong hoàn cảnh của mỗi gia đình mà thôi. Ai có tiền thì kín đáo
nhỏ nhẻ ăn uống. Vì nếu có kẻ biết được đi báo cáo với công an, với nhà nước
thì tội vạ từ trên trời rớt xuống sẽ tan nát gia đình trong chớp mắt. Các nơi
công cộng nghèo nàn xác xơ. Nơi thiêng liêng chỉ cúng lễ hạn hẹp không được tụ
tập đông người. Ở nhà thờ thì làm lễ trong giáo đường. Chùa, đình, miếu… thì
không còn đón giao thừa, hái lộc đầu năm rộn rã như xưa. Sáng mùng một chỉ lác
đác xuồng ghe chở trẻ con mặc quần áo sạch sẽ về thăm ông bà. Dân cư trong thôn
làng, nam thanh nữ tú không còn từng đoàn, từng nhóm đi trên đường quê áo xanh,
áo hồng dù tím dù hoa vui tươi cười nói. Hay có những trò vui chơi giải trí
trong ba ngày Tết như: đá gà cá độ, bầu cua cá cọp, đốt pháo, múa lân mừng đón
xuân về… Bởi họ bị chế độ Cộng Sản bần cùn hóa! Họ đau cho cái đau chung mất
nước trong các liên hệ gia đình như cha, anh, chú, bác, chồng, con, anh em, họ
hàng… bị đày vào trại tù tập trung cải tạo không có bản áng, không biết ngày về
thì làm sao mà vui cho nổi! Giặc vào
cướp của, giết người qua nhiều cách, qua nhiều hình thức khác nhau. Dù lịch sử
dân tộc Việt Nam bị độ hộ bởi ngoại xâm… Nhưng dân ta cũng không đau thương,
khốn khổ như ngày nay. Nghĩ đến đâu Tịnh An cảm thấy cõi lòng ai oán, nát tan!
Cô chép miệng thở dài ngao ngán!
Trên nền trời đêm chi chít lấp lánh
những giề sao. Gió xuân mang mác lành lạnh thổi qua. Cái lạnh dễ chịu nồng ấm
của hương nhang trầm tỏa bay trong không gian nửa đêm về sáng. Gà gáy ó ó báo
hiệu canh hai thì mợ Út thức dậy lục đục hông cơm, hâm thức ăn và nầu nước pha
trà để cúng các bàn thờ trong nhà.
Dư Thị Diễm
Buồn
(còn tiếp)
No comments:
Post a Comment