Người Quay Tơ
Tử Nương là một người con gái thôn
quê làm nghề chăn tằm, ươm tơ, ở làng Xuân Nghi huyện Hồng Lạc. Nhà nghèo, cha
mẹ đã già, làm lụng để nuôi hai thân. Cô trông xinh lắm, người thanh thanh vừa
tầm, hai con mắt êm đẹp, mỗi khi trời nắng, gió lạnh, cô ra sân hai tay ngọc xe
sợi tơ vàng dệt lụa là cho người trong làng mặc. Một hôm, đương ngồi quay tơ
ngoài sân thời có một người học trò nho đi qua, thấy nàng đẹp quá mê đứt đi,
ngày nào cũng hai lần trèo qua cái đồi cao, sang để gặp mặt nàng như thế, được
gần một năm. Về sau nàng biết mà cảm thương, đem lòng mến. Mùa đông gió trên
đồi thổi mạnh, lắm hôm rét quá mà nàng cũng chịu khó ra ngồi quay tơ ngoài sân
cho người học trò được trông thấy mặt.
Tin đi mối lại rồi hai người lấy
nhau, lúc ấy nàng mới có mười sáu tuổi. Nhà chồng nghèo nàng vẫn giữ nghề cũ
nuôi chồng đi học, năm sau đỗ tú tài. Hai vợ chồng hòa hợp thương yêu nhau lắm,
lấy nhau được trên hai năm cũng chưa có con cái gì. Một hôm ông tú gọi nàng
đến, khóc và dặn rằng:
- Tôi đi phen này chưa biết bao giờ
về, mà tôi cũng không mong đâu trở về nữa, không biết có còn thấy được mặt nhau
nữa không?
Nàng nói:
- Thôi tôi hiểu cả rồi, việc cửa nhà
tôi xin thay, chàng cứ yên tâm mà đi. Việc gì phải khóc lóc thế. Làm tài trai
trong nước mà không được như người con gái quê mùa này ư?
Nhưng nàng nói thế rồi nàng cũng khóc
theo. Ông tú lên Hà Nội, rồi đi đâu mất, họ đồn là theo bọn văn thân. Mấy tháng
sau có mật thám về bắt bà cụ chánh là bà mẹ ông tú và từ đường lên tra hỏi. Lúc
mới đến, nàng biết ngay, mặt tái ngắt, song gượng lại ngay mà nói:
- Các bác cứ để yên tự khắc bà tôi và
tôi sẽ lên, chúng tôi không việc gì mà phải trốn, không cần phải xích tay, xích
chân gì cả.
Các bác kia thấy người con gái nhà
quê mà ăn nói cứng cáp, khẳng khái, bằng lòng để cho hai mẹ con được tự do.
Ông tú phải đi đầy Côn Lôn chung
thân: nàng lại đem bà Huấn về quê giữ cái guồng tơ khung củi để lấy tiền phụng
dưỡng thay chồng. Như thế được bốn năm trời: từ mẹ chồng cho đến người trong họ
ai ai cũng cho phép nàng cải giá, nàng nhất định không lấy ai cả, quyết giữ lời
thề với người cũ. Ông tú ở Côn Lôn cũng mấy bận viết thư về khuyên nàng, bắt
nàng lấy người khác, lời lẽ thảm thiết thương. Nàng xem thư chỉ khóc rồi có khi
nào nhớ chồng, lên tít trên đỉnh đồi cao mà đứng trông, có khi về nhà bố mẹ đẻ
ra ngồi quay tơ ngoài sân, tưởng tượng đến lúc gặp gỡ, người thư sinh từ mấy
năm về trước; những lúc ấy thời nàng lại đẹp lên bội phần, ai cũng thương mà ai
cũng yêu, trong làng nhiều người rắp ranh bắn sẻ: một ông giáo có quen ông tú,
góa vợ đã lâu cũng đem bụng yêu nàng, cho mỗi sang hỏi. Lúc mối sang, nàng biết
ngay, than rằng:
- Ai ngờ bác giáo mà cũng đến như thế
ư!
Nói xong mắng mối đuổi ra. Ai cũng
giận mà ai cũng mến nàng hơn trước.
Bà cụ Huấn mất, nàng làm ma chay cho
chu đáo, rồi lên tỉnh xin phép đi theo chồng. Xin mãi mới được phép, Nhà nước
lại cho cả tiền tầu nữa.
Nàng về quê thu xếp, rồi một thân một
mình ra đi, đất lạ quê người. Nàng ở bên ấy với chồng khổ sở trong ba năm, sinh
được một đứa con trai thời ông tú bảo nàng về:
- Như tôi chiếc thân đầy đoạn đã đành
chứ vợ con tôi thời có tội tình gì, nay đã được đứa con để nối dõi thời mợ đem
con về nước, cố mà nuôi cho nên người khí khái, chứ ở đây với tôi mãi, thời chỉ
thêm phí hai đời người nữa mà thôi. Còn tôi... tôi cũng không định sống lâu
đâu, xin đừng tơ tưởng đến tôi nữa!
Nói xong, nắm tay vợ khóc mà từ biệt.
Hôm nghe tin nàng đem con về, cả làng
Xuân Nghi ai ai cũng rủ nhau ra quán đón mừng. Lúc nàng bế con ở trên xe xuống
hai con mắt ngơ ngẩn đưa nhìn khắp hết người làng, trông nàng có cái vẻ thần
tiên: nàng có vẻ cảm động quá ứa nước mắt mà khóc, người làng cũng nhiều người
khóc theo.
Nàng thấy ai cũng có bụng kính mến,
nên vui lòng mà làm ăn, tậu được cái nhà con ở chân đồi ngày ngày đi buôn hàng
tấm. Một hôm nàng đang ngồi chơi với con thời có giấy về báo tin rằng ông tú tự
tử mất đã được hơn một tháng rồi. Nàng ôm con vào lòng rồi ngã xuống ngất người
đi. Mấy ngày hôm sau mới nhận được bức thư ông tú gởi về từ biệt.
Nàng cũng khuây dần: có lẽ nàng nghĩ
mình đã có con cũng đủ, và một đằng sống một đằng chết, sống mà cũng như chết,
thời thà chết còn hơn, linh hồn mới có thể về cùng vợ cùng con được.
Năm sau những người phải tội đi đầy
chung thân với ông tú được tha cả. Nàng cũng biết tin ấy, thế có ai oán không?
Đứa con nàng tự nhiên phải bệnh chết, nàng hóa điên từ đấy; bây giờ cứ đi lang
thang, hát nghêu ngao, nhưng thường thường nàng hay về nhà bố mẹ đẻ, lấy cái
guồng năm xưa ra quay tơ, quay cả ngày mà không biết mỏi, thỉnh thoảng có hát
lên mấy câu.
Mới đầu cũng thương hại, song nghĩ
cho kỹ thời thế lại hay cho nàng đấy, có lẽ thế mà lại xong, thật đấy nàng là
người sung sướng nhất đời còn chúng mình đây không được như nàng phải đầy đọa
chung thân.
-ừ, thử nghĩ xem sống mà đeo cái đau
khổ suốt đời, cái đau khổ không bao giờ khuây được chỉ có một cách là tự diệt
mình mới thoát ly, thời cái điên là chẳng nên ước lắm sao? Nàng không biết mình
là khổ thời nàng là người tiên rồi. Ôi! Nhưng bây giờ Tử Nương còn biết gì nữa,
nàng có nhớ đến chồng con nàng nữa đâu, ai đã yêu nàng, nàng có nhớ đâu mà nàng
còn yêu ai nữa, nàng chỉ ngày ngày thơ thẩn một mình lên tít đỉnh đồi cao mà
đứng trông... Nhưng nàng trông ai bây giờ?
Đường trần mới đến nửa chừng, Mà guồng tơ cũ đã ngừng bánh xưa.
Nxb. Đời nay, Hà Nội, 1927
No comments:
Post a Comment