Ban Mê Thuột - Ngày 10 tháng 3, một cuộc đời đã mất
Cuộc đời có nhiều khúc chia ly. Thâm Tâm "đưa người ta không đưa
sang sông, sao có tiếng sóng ở trong lòng". Thanh Tâm Tuyền là "thằng
điên khùng, ôm em trong tay mà đã nhớ em ngày sắp tới". Trịnh Công Sơn
có "những hẹn hò từ nay khép lại, thân nhẹ nhàng như mây, chút nắng
vàng giờ đây cũng vội, khép lại từng đêm vui".
Dù đời nghiệt ngã dù ta đã già
Khói sương nhân ảnh có mờ
Bạn ta, ta giữ một ngày mười ba...
Ngày đó là ngày 9 tháng 3 năm 1975. Hôm sau, 10/3, Ban Mê Thuột thất
thủ.
*
Buổi sáng, ôn nội, má tôi cùng đàn con 7 đứa di tản qua nhà chú Kim
Liên. Nhà chị mái tôn vách gỗ, ở đây nguy hiểm; anh Hai lại không có nhà - Chú
Kim Liên ân cần bảo. Tiếng đại pháo vẫn liên tục ầm ì vọng về từ chiều hôm qua
trên thành phố hoang mang. Ba tôi không thấy về từ tiểu khu Mai Hắc Đế. Má tôi
âu lo không biết nên đem theo những gì. Ôn tôi làu bàu nhà mình không ở, lại đi
đâu. Tôi và lũ em vui mừng vì tự nhiên có một ngày nghỉ học. 1 giờ trưa, mọi
toan tính, làu bàu, vui mừng đã chấm dứt khi những viên đạn AK xé nát khung cửa
sắt phía trước và bên kia của con đường A Ma Trang Long ngập lửa. Chiến tranh
thật sự gõ cửa vào nhà. Chú Kim Liên ngồi co rút dưới chân cầu thang, mặt không
còn chút máu, mếu máo khóc. Lần đầu tiên trong đời tôi thấy người lớn sợ hãi
hơn tôi.
Chiều. Im lặng. Dãy nhà bên kia đường đã cháy rụi. Mọi người quyết định
kéo nhau về chùa Khải Đoan. Ở chùa vẫn tốt hơn, ôn nói. Đi ngang đường Quang
Trung, tôi nhìn thấy chiếc xe tăng áng trước chợ Đê. Hai người lính bộ đội mệt
mỏi yên lặng đứng nhìn chúng tôi. Lần đầu tiên trong đời tôi nhìn thấy những
người phía bên kia. Họ bình thường, không hung tợn như hình ảnh tôi có trong
đầu qua những sách hình đã xem, những truyện đã đọc. Chú Kim Liên mặt mày lại
tái mét, chân đi muốn khụy.
Tháng ba, tôi đi qua những hàng cà phê đứng gió. Đôi chân với gai mắc cỡ
đâm sâu từ đêm qua vẫn còn râm râm nhức. Tôi đi qua vùng kỷ niệm của những buổi
trưa trốn học tiết đầu, rủ nhau đạp xe đạp vào những đồn điền cà phê bắt ve
sầu, nằm ngửa mặt đón những tia nước đái giống như mưa phùn của hàng nghìn con
ve mà chắc chỉ ở nơi này mới có.
Buổi chiều cả đoàn được dừng lại nghỉ qua đêm. Bác chủ đồn điền tốt bụng
đem gạo và nồi nấu ra cho. Người con gái khoảng cùng tuổi cho tôi một cái mền
xanh của quân đội Mỹ. Tôi ôm nồi xuống suối tắm và lấy nước nấu cơm. Vừa kịp
vắt xong cái áo thì ầm ầm, tiếng bom như xé nát bên tai. F5 của không quân
VNCH! Tiếng người la ơi ới. Chiếc phản lực bay với tốc độ vượt âm thanh nên
tiếng bom đến trước tiếng động cơ theo sau. Tôi ôm nồi nước chạy vắt giò lên
cổ. Bụi đỏ ngập bầu trời. Không kịp thở tôi về đến chỗ tập trung, nhìn lại nồi
nước hình như không đổ một giọt. Sợ đến nỗi chạy trối sống trối chết mà vẫn vô
thức giữ cho nồi nước còn nguyên. Lần đầu tiên trong đời, tôi biết thế nào là
sợ đến té đái trước biên giới tử sinh. Tôi mất cái áo ở bờ suối. Tối hôm đó,
nhớ má quá tôi quyết định trốn về.
*
Đi ngang qua nhà số 94 đường Lê Văn Duyệt nhìn vào tôi biết ôn, má và
các em tôi không ở đó. Dì Vinh bán bánh căn đầu đường, má thằng Cứt bạn tôi,
nói má con lúc ở chùa bả khóc quá chừng khi con bị mất tích. Cả nhà con bây giờ
đang ở bên cậu Tương. Dì Vinh lấy một cái áo của thằng Cứt cho tôi mặc. Con ở
trần về má con thấy bả còn khóc dữ. Về nhà cậu, má tôi ôm tôi bù lu bù loa. Ôm
má, tôi nhìn ôn quẹt nước mắt. Lần đầu tiên trong đời tôi nhìn được giọt nước
mắt của ôn. Còn tôi không hiểu sao tôi không có được một giọt nước mắt. Và ba
tôi vẫn biệt tăm.
Ngày hôm sau tôi theo má và ôn đi tìm ba. Con đường dẫn đến trường Trung
học Tổng hợp nồng mùi xác chết. Trời Ban Mê giữa trưa tháng ba đã hầm hập gió
mùa. Ôn, má và tôi đi suốt từ suối Đốc Học, đến tiểu khu Mai Hắc Đế, về phi
trường L19 và dọc theo đường Hùng Vương. Những xác người sình căng giữa ngọ.
Những con đường chết với đàn ruồi vo vo bay lên đáp xuống. Mỗi xác chết là mỗi
bước phân vân, lưỡng lự. Mỗi xác chết ôn tôi rón rén đến gần nhìn. Mỗi xác chết
nằm sấp ôn tôi lật ngữa. Mỗi xác chết ôn tôi cười mếu máo - không phải thằng
Hai!. Mỗi xác chết má tôi cười theo sau làn nước mắt. Lần đầu tiên trong đời,
tôi cười trên những xác người.
Một tuần sau ba tôi trở về với chiếc quần xà lỏn và cái áo may ô đen
đủi. Đó là hình ảnh cuối cùng của người lính VNCH trong tôi. Ba tôi ôm ôn tôi
khóc trước khi ôm má tôi.
*
Tháng Tư trở về ngôi nhà hương hỏa
con chó già nằm ngủ thiên thuMinô, Minô gốc ổi vàng yên giấc
chiếc võng buồn tênh
không người đưa...
Tôi trở về nhà. Bàn yên, ghế lặng, sách vở nằm im. Mười ba tuổi tôi đã
cảm nhận được cuộc bể dâu. Hai anh em sinh đôi thằng Sinh thằng Sáng lớn hơn
tôi 3 tuổi đi sùng sục khắp xóm với băng đỏ trên tay. Bác Khuê tài xế sát nhà
làm tiệc mời hàng xóm tới nhậu oang oang để mọi người biết bác đang ăn mừng
cách mạng về. Nhà thằng Khánh có ba nó làm lớn trong tòa tỉnh trưởng đóng cửa
kín bưng. Ba tôi lính quèn nhưng nhờ nhậu giỏi nên quen biết lớn, sau một ngày
đi mất tiêu, trở về nhà nói với má tôi chắc cả nhà ông tướng Cảnh, đại tá Quang
đã đi rồi. Mình cũng phải đi thôi. Má tôi khóc lóc không biết nên đi hay ở, để
lại mệ ngoại cho cậu Tương, má không đành. Ngày hôm sau, tin đồn người di tản
chết như rươi trên quốc lộ Số 1 giải quyết mọi đắn đo của má. Còn tôi, tôi ra
sau nhà, đào đất chôn Minô dưới gốc ổi.
*
Mỗi tối ngồi nghe đài, ôn tôi lại mừng rỡ nói với cả nhà: Nha Trang mất.
Pleiku mất. Đà Lạt mất… Mỗi địa danh thất thủ là mỗi gánh nhẹ được gỡ bỏ khỏi
nỗi lo âu nặng nề của ôn. Ôn nói với má là ôn sợ nếu chỉ có Ban Mê Thuột bị mất
giống như Phước Long mấy tháng trước đó thì đời thằng Hai sẽ tàn. Thôi thì mất
hết là hết chiến tranh, thằng Hai, thằng Cu Em không phải bị bắt đi lao công
chiến trường. Ôn tôi, một người làm cu li cho Tây, không biết đọc, biết viết
chỉ nghĩ đơn giản như thế cho kết cục của một cuộc chiến 21 năm. Ngày 30 tháng
4 Tổng thống Dương Văn Minh tuyên bố đầu hàng. Ôn thở phào nhẹ nhõm. Lúc đó tôi
đang ngồi viết lại những tờ khai lý lịch của ôn, mệ, ba và má. Mỗi lý lịch
khoảng 10 trang. Mỗi người phải có ba bản sao. Tờ nào có một chữ sai phải viết
lại cả trang.
Ngày 30 tháng 4, cả nước lo âu hay cả nước mừng rỡ tôi không biết. Tôi
ngồi chửi thề vì phải viết tay gần 100 trang bản khai lý lịch gia đình.
*
Năm tháng trôi. Người lính VNCH quần xà lỏn áo may ô lần cuối tôi nhìn
bây giờ lụ khụ ở nhà giữ cháu cho con. Anh bộ đội cụ Hồ ở chợ Đê ngày ấy bây
giờ còn hay mất? Cũng đang lủi thủi giữ cháu như tên lính ngụy cùng thời? Đã
qua rồi những nòng súng chĩa vào nhau. Đã mất hút theo thời gian những ngày
khói lửa Trường Sơn, Đại lộ Kinh hoàng và Mùa hè Đỏ lửa. Nhưng vẫn còn đó một
cuộc chiến tàn khốc giữa độc tài và những kẻ bị trị. Tử vong, tự hủy hoại và
mất mát của 42 năm thời bình đã vượt xa nhiều lần so với 21 năm chinh chiến.
Đất nước này vẫn triền miên trong một cuộc chiến không bom đạn.
42 năm trôi qua. Những đứa bé ngày xưa bây giờ đã quá nửa đời người. Con
đường gian nan tưởng đã chấm dứt từ 42 năm trước, từ thời đại của thế hệ đàn
anh, nay vẫn còn tiếp diễn và kéo dài qua thế hệ đàn em.
đ. mẹ đời đ. má tương lai.
Ba mươi tháng tư. Một ngày với nhiều tên gọi. Đại thắng mùa xuân, ngày
giải phóng, ngày thống nhất, ngày quốc hận, tháng tư đen... Cuộc chiến không
bom đạn lại được thêm giáo thêm gươm bởi những danh xưng định vị tư tưởng và
lằn ranh ta-địch. Có nghĩa lý gì về tên gọi cho một ngày của quá khứ 40 năm.
Tên của nó chỉ chính xác bằng bóng hình qua tấm gương soi của thực tế hiện
tại.
42 năm
sau, túm gọn cuộc đời của nhau bằng 2 câu thơ bạn tôi đọc, nhìn thực tại trần
ai của đất nước để đo lường giá trị của mốc điểm lịch sử, tôi thấy cái tên gọi
mà ôn tôi, một cu li không biết đọc không biết viết, đặt cho nó vào đêm cuối
cùng tôi ngồi bên ôn là chính xác: 30
tháng 4 - ngày khốn nạn.
Ghi Chú Của 304Đen: chữ "sau ngày giải phóng" nên sửa lại theo đúng tinh thần của bài viết thì hay hơn.
No comments:
Post a Comment