Đêm
Xuân Nào Tôi Đến Thăm Anh
Cơm nước được dọn ra thì cậu Út cũng
đã thức. Và anh Hai con trai lớn của cậu cũng vừa mới tới. Anh dụi ngọn đuốc để
ngoài sàn lảng, rồi đi cửa sau vào nhà. Thấy con, mợ bảo:
- Con vào ăn bậy chén cơm lót lòng với cha và
mấy em rồi đi cho sớm đi. Kẻo đến kinh Cùn gặp nước cạn thì trễ nãy hết mọi
việc.
Anh Hai không trả lời mẹ, hỏi:
-
Đồ đạc bưng xuống ghe hết rồi chưa má? Có đem mớ quay chèo sơ-cua theo
không?
Mợ Út trả lời ngay:
- Ba bây đã bưng để dưới ghe từ đầu hôm. Dây
quay chèo đã đổi cái ổng mới đánh và có đem theo mấy cái mới nữa. Nước uống,
bánh, trái… Mọi thứ đã chuẩn bị xong hết rồi. Thôi vô ăn cơm đi...
Anh Hai đứng sau lái với hai chèo dài dưới đôi tay gân guốc của anh gặp nước xuôi nên chiếc ghe đi rất nhanh. Cậu Út ngồi dùng cây dầm bản lớn, dài bơi trước mũi. Tú Huệ và Tịnh An mỗi cô một cây giầm nhỏ, ngồi trên chiếc chiếu lớn xếp xuôi làm bốn trên xạp ghe khô ráo. Gần bên cái thúng giê đựng nào bánh tét, ổi, mận, nước chai, ấm nước trà và cái lon có tay cầm sơn bông vẽ hoa dùng để uống nước. Tịnh An lấy làm lạ, tại sao chỉ đi thăm ruộng thôi mà phải đem theo nhiều đồ đạc linh kỉnh như thế?
Đêm ngồi
coi mợ Út và hai cô dâu gói bánh tét, Tú Huệ đã rủ cô theo cậu Út đi thăm ruộng
chỉ ở phía trong Quốc lộ Bốn thôi. Tịnh An chợt phì cười nhớ tới sự láo táo của
bạn mình. Số là hai cô ngồi coi mợ Út và dâu mợ gói bánh tét. Hai chảo nếp lớn
cả chục lít cho mỗi chảo chớ không ít đâu. Nếp tốt nên hột trọng trường dẽo
nhẹo, trắng bông có trộn đậu đen nấu chín đã xào với nước dừa còn nghi ngút khói.
Mợ Út và hai người dâu nhậm lẹ kẻ trải lá, người xúc nếp, để nhưn, quấn, gói,
cột chặt chẽ đòn bánh mập ú, có ngấn. Tịnh An thì chăm chú ngồi coi, ả Tú Huệ
nhà ta ngồi sát bên chảo nếp, thỉnh thoảng bóc đậu đen bỏ vào miệng nhai ngon
lành. Bỗng dưng con nhỏ nhảy cởn lên rồi bỏ chạy ra lu nước bên ngoài. Làm mọi
người ngạc nhiên chưng hửng không biết tại sao? Thì ra trong khi bốc đậu đen
ăn, cô ta bốc nhầm con bọ hung (có hinh dáng tròn, nhỏ và đen như hột đậu. Loại
bọ hung nầy thường thấy chúng ăn và đùn làm ổ ở các đóng cứt heo). Con bọ hung
kia thấy ánh đèn, bay đến bị rớt trong nếp. Không nhịn được, Tịnh An cười thành
tiếng, và lí lắc hỏi: “Ê, con bọ hung
tốt số đó có ngon không mậy?” Tú Huệ ứa
gan trề môi, không thèm trả lời và cả buổi không thèm nói chuyện với cô!
Tịnh An
thiệt là khổ sở vì đi từ sáng sớm, đến bây giờ mặt trời sắp lặn mà vẫn chưa
đến? Phương tây ửng màu tươi thắm. Nắng hoàng hôn yếu ớt trải trên ruộng lúa
mênh mông không thấy nhà cửa và bóng người. Nắng trải trên kinh dài nước đục
ngàu đậm màu phù sa. Những cây ô môi hai bên bờ trổ đầy hoa, rơi rụng tím cả
mặt nước. Lác đác theo bờ kinh có những cây vông đồng hoa nở đỏ thắm. Những
vầng mây trắng mỏng in trên nền trời xanh bát ngát. Chỉ có tạo hóa thôi, chớ dù
cho họa sĩ tài hoa đến đâu cũng không làm sao tạo được cảnh sắc thiên nhiên
lộng lẫy sinh động nầy.
Cậu Út
như hiểu ý của Tịnh An. Bởi ghe đi qua bao nhiêu sông lớn sông nhỏ, kinh đào,
khi nước lớn, lúc nước ròng mà vẫn chưa đến bến? Cậu ôn tồn:
- Hai cháu chắc mệt lắm phải không? Ăn uống gì
đi, bánh trái có sẵn trong thúng đó. Ráng một chút nữa, sắp tới nơi rồi.
Tú Huệ
tài lanh:
- Cháu không mệt chút nào hết! Cháu còn cảm
thấy vui là được ngắm nhìn cảnh sắc tươi đẹp của vùng ruộng đồng bao la êm ả
dọc hai bên đường mình đi đó cậu.
Cô xoay
qua bạn:
- Chắc mầy cũng không mệt? Bởi mấy thuở bọn
mình được ngắm cảnh thiên nhiên của vùng Đồng Tháp Mười nổi tiếng nầy hả Tịnh
An ?
Tịnh An
nghe mà phát ghét cho cái điệu bộ hí hửng của bạn. Cô cười như mếu:
- Ờ thì mầy nghĩ sao thì sao đi.
Rồi cô
quay qua cậu Út:
- Có ruộng ở quá xa như vậy, mỗi lần
đi thăm thật là vất vả hả cậu... ?
Cậu Út mỉm cười ý nhị mạnh tay bơi chớ không trả lời câu nói của cô cháu
dâu tương lai. Lúm xúm chòm nhà tranh đôi ba cái đã có ánh đèn leo lét bên kia
kinh mập mờ phía sau rừng trâm bầu. Văng vẳng giọng hát buồn đưa trong gió ru
con của cô phụ : «Ầu ơ ơ… Chim xa
cành còn thương cây nhớ cội/ Người xa người tội lắm người ơi/ Chẳng thà không
biết thì thôi/ Biết rồi mỗi đứa một nơi cũng buồn…».
Ghe cặp bến, cậu Út cầm sợi dây
kéo cho mũi ghe sát bờ có đầy cỏ lông dài mọc bò tàn lan. Cậu cột dây vào gốc
cây bù lời (cây gừa) gie xuống mé nước. Anh Hai dỡ tốc tấm vạt ghe nơi anh đứng
chèo, khom lưng bưng lên hai thúng bánh
tét đầy ắp. Cậu Út vịn cho ghe đứng yên không bị lắc lư để hai cô cháu bước lên
bờ. Rồi cậu dở nắp mũi xuồng xách hai giỏ bánh tét nặng lên. Người ở trong căn
nhà lá nhỏ kế bên mé mương, gần bờ kinh nghe lục đục bên ngoài, đi ra với chiếc
đèn cốc le lói trên tay. Chị ta lấy bàn tay che trước trán gần chân mày để nhìn
cho rõ là ai ? Chị vui mừng trổi giọng như reo:
- Dạ thưa cậu Út mới lên, mợ có khỏe
không ? Còn gì dưới ghe không cậu để cháu xuống phụ?
Cậu Út lấy khăn lau mồ hôi, vừa bảo:
- Có thằng Hai, để nó bưng lên được
rồi. Ruộng rẩy cháu năm nay trúng mùa chớ? Bọn nó về rồi phải không?
Chị ta đưa tay xách phụ cậu Út một giỏ bánh, vừa trả lời:
- Dạ họ về rồi, ở trong miễu. Mùa màng năm nay
đỡ hơn mọi năm. Nếp coi bộ trúng hơn lúa đó cậu. Đi cả ngày nay chắc mọi người
đều mệt lắm. Thôi để cháu đi nấu cơm.
Tịnh An và Tú Huệ đi sau cậu Út. Cả
hai cô mỗi người trên tay đều xách một giỏ. Giỏ xách của Tịnh An là mứt, bánh,
kẹo, lạp xưởng và mấy gói trà tàu gói giấy kiếng đỏ. Cậu Út và anh Hai xách đồ
dưới ghe đem lên hết. Tịnh An lấy làm lạ quanh gần nầy chỉ có căn nhà nhỏ trơ
vơ nầy. Sau nhà có cái trại có con trâu nghé đang nằm. Trong nhà chỉ có chị Tư
với đứa con gái nhỏ. Vậy tại sao họ đem bánh tét vào cho ai ăn mà nhiều cả mấy
thúng như vậy?
Đã vào
nhà nãy giờ, Tú Huệ cười chúm chím đánh vào vai bạn, nói:
-
Chắc là mấy mệt lắm? Khăn đây nè đi rửa mặt cho tỉnh táo rồi chút nữa ăn
cơm. Mầy có đói bụng không? Tao tưởng ở gần, ai ngờ xa quá là xa.
Thiệt là vô duyên hết chỗ nói! Mặt
nó cũng hây hây đỏ vì nắng, vì gió và chưn cũng bị tê cống vì ngồi suốt cả ngày
nay, vậy mà hồi nãy cậu Út hỏi nó còn làm bộ như ta đây! Thì ra chuyến đi thăm
ruộng nầy không phải bất ngờ mà nó đã biết trước rồi. Khi trở về thế nào cô
cũng tra tấn hỏi tội con a đầu nầy mới được.
Giận
trong bụng, cô nổi cáo giựt cái khăn trên tay bạn, ngoe nguẫy bỏ đi ra lu nước.
Vừa đi cô vừa càm ràm:
-
Đừng hỏi dư thừa nghen mậy. Có câu nào hay hơn để mầy hỏi không? Bộ tao
mình đồng da sắt như mầy sao mà không đói, không khát, không mệt?
Tú Huệ chẳng những không giận mà còn
cười tòe cái miệng như cái gáo dừa:
-
Tao thiệt không mệt chút nào, mà lòng còn cảm thấy phơi phới vui như mùa
xuân mới…
- Nói với mầy tao mệt quá đi thôi! Ờ thì mầy cứ
vui như Tết đi con quỉ kiến sầu, kiến lửa, kiến hôi, kiến vàng, kiến riệng,
kiến đất, kiến đen, kiến nẻ…
Tịnh An không nhịn được bật cười
thành tiếng cho câu rủa xả của mình! Bữa cơm tối với nồi gạo lúa vé vàng trồng
ở ruộng nhà. Dĩa khô cá tạp (lộn xộn nhiều thứ như là: cá trạch, cá rô, cá trê,
cá sặc…) Chị Tư câu, hoặc xúc ăn không hết phơi để dành. Chén nước mắm đồng mùi
nồng hăng hắc với xoài non bằm xắt mỏng, và ớt hiểm chín đỏ dầm phơi hột trắng
trên mặt. Tô canh bầu cắt ngoài giàn chưa ráo mủ nấu với cá rô non vừa kéo cái
vó đặt ở mé mương. Dĩa dưa leo mới hái còn tươm mủ trong, nhai giòn khưu khứu.
Cả bốn người nhứt là hai cô gái tỉnh thành nầy ăn ngon còn hơn ăn bữa giỗ có
những món tóc tiên, bào ngư, vi cá, ổ yến… của thời xưa cũ.
Ngọn gió đêm mát
rượi đùa cành lá cỏ cây. Âm thanh rào rào êm tai do lá cành va chạm vào nhau ở
quanh nhà. Tịnh An ngồi bên bếp lửa coi nồi khoai dương ngọc mà cô tự lãnh nấu,
để tránh mặt, khi thấy có mấy người khách lạ bước vào nhà. Có lẽ họ là những
nhà nông ở xóm trên xóm dưới gì của chị Tư, hoặc là tá điền hay là người mướn
ruộng của cậu Út? Tiếng nói, cười khe khẽ tươi vui của họ Tịnh An không nghe
được. Dù chỗ cô ngồi chỉ ngăn cách bằng những tấm lá chầm vừng vách thôi.
Không
gian có màu đen huyền hoặc của những ngày đầu tháng Âm lịch. Nền trời in chi
chít hàng vạn ngàn vì sao mọc thành giề hoặc riêng rẽ nhưng như kề cận bên
nhau. Tiếng những con chim ăn đêm về muộn gọi đàn kêu oang oác trên không rồi
mất hút. Dưới mương tiếng cá quẩy đươi ăn móc trốc trốc. Tiếng côn trùng hòa
nhịp nhỏ nhẽ kêu vang.
Theo Tú
Huệ kể, chị Tư chủ nhà khi còn đi học thì lập gia đình. Quê chị ở chợ Vĩnh
Bình, sau khi cưới nhau không lâu theo chồng về sống ở vùng quê nghèo hẻo lánh
nầy. Chị có hai con, đứa trai lớn 7 tuổi ở chợ Vĩnh Long với ông bà nội đi học.
Chị sống hủ hỉ với đứa con gái 3 tuổi và chồng đi làm xa lâu lâu mới về. Tịnh
An hơi chột dạ và nghe thương chị, thương người mẹ người vợ trẻ (có lẽ hơn cô
5, 7 tuổi) mà phải về sống ẩn nhẫn nơi chó ăn đá gà ăn muối xa chợ, xa xóm
chòm… Cô nghĩ năm mười bữa, nửa tháng có thể chị cũng chưa nghe được tiếng
người khác nói chuyện ở vùng vắng vẻ như vầy? Ngày nầy qua ngày kia, hai mẹ con
chỉ nghe tiếng gió thổi, chim kêu, tiếng mưa rơi. Nhìn dòng nước chảy, nhìn bầu
trời trong nắng, nhìn mây bay.
Sức mạnh
nào có thể khiến chị cam chịu an phận và vui lòng trong cuộc sống hiện tại? Đó
là sức mạnh tình yêu của người vợ thương chồng chăng? Cô không biết, nhưng sự
thật chỉ có hai mẹ con chị đang sống ở đây!
Dưới ánh lửa bập bùng của nồi khoai
đang sôi sùn sụt, thỉnh thoảng nước tràn ra rớt xuống than hồng, tro nóng nghe
xèo xèo. Mắt cô mông lung nhìn trời nhìn sao, tâm hồn đang nhập vào dòng suy
tư, nên cô ngồi như bất động.
-
Đang nghĩ gì đó, cô Ôn Thị Tịnh An?
Giọng
nói nhẹ như gió nhưng làm cô giựt mình ngạc nhiên quay phắt lại! Tại sao ông ta
lại biết cả tên tộc cô mà gọi như vậy? Dù cha mẹ lúc còn sanh thời, anh chị em
ruột thịt, bạn bè hay họ hàng chỉ gọi Tịnh An thôi! Phải, chỉ hai chữ Tịnh An
ngắn gọn! Anh ta là một trong bốn người khách mới đến. Những người đó quen của
cậu Út, hoặc bà con của chị Tư chủ nhà nên họ nhỏ to trò truyện nãy giờ. Con
tiểu yêu Tú Huệ cũng ăn ké nói chuyện ở trển không thèm xuống ngồi chụm lửa với
cô. Anh ta đứng đó, dáng điệu trầm ngâm, mặc toàn màu đen. Chiếc khăn vằn quấn
đầu choàng phủ hai bên má và luôn cả cổ. Bên trên còn đội chồng lên chiếc nón
vải của mấy người lính ngày xưa. Tịnh An chỉ thấy cái mũi và cặp mắt long lanh
dạ ánh lửa hồng của bếp lò đang cháy bập bùn.
- Không nhận ra anh sao?
Dáng
người đó! Gọi cả tên tộc với giọng nói đó, cô nhớ chỉ có một người! Phải, chỉ
có một người! Nhưng thật bất chợt quá nên cô không nghĩ ra ngay là ai? Tịnh An
mở to mắt nhìn vào mắt ông ta đang dở nón và lấy khăn ra. Cô thảng thốt, cây
củi đang cằm trên tay rơi xuống ! Cô cà mà cặp mặp nói không tròn lời:
-
Trời ơi, anh Tú,… Tú,… Tú Tâm ! Anh Tú Tâm, thiệt là anh đây sao?
Anh ta trả lời cô bằng đôi mắt sáng
ngời và nụ cười nửa miệng của ngày xưa. Nồi khoai nấu vẫn sôi sùn sụt, củi cháy
bừng lửa reo lách tách. Không gian như ngừng động! Bao nhiêu nỗi nhớ niềm
thương tràn dâng theo dòng lệ long lanh trên đôi má Tịnh An ửng hồng ánh lửa
bếp lúc mờ lúc tỏ.
Chị Tư bưng rổ đến vớt khoai đã nấu chín. Cử chỉ của chị nhẹ nhàng lặng lẽ
như sợ khuấy động hai người. Tú Tâm lấy chéo khăn lau nước mắt cho Tịnh An, anh
nhỏ giọng :
- Đừng buồn nữa em. Không phải bây
giờ chúng ta gặp lại nhau, và anh đang ngồi trước mặt em đây sao? Hãy vui lên
hồn nhiên vô tư như Tịnh An ngày xưa đi chớ. Em đã ốm đi nhiều.
Cô nói trong dòng
lệ:
-
Làm sao không ốm được? Tại sao anh không tin tức gì về cho em hết vậy?
Anh có biết em sống trong buồn khổ như thế nào không?
Tú Tâm xiết chặt tay người yêu trong
tay mình:
- Má anh và Tú Huệ biết anh còn sống chỉ mấy
tháng nay thôi. Trước ngày giặc vào, đồng đội anh có người về với gia đình, có
người bay ra ngoại quốc. Anh định về nhà, anh nhớ có đi qua nhà em đến nhà anh nhưng anh đổi ý không vào. Vì lúc đó thành phố rối loạn
người, xe, giặc thù và đồng đội đã cởi bỏ áo trây-di để giữ lấy thân. Anh và
một số anh em khác rút về vùng Bảy núi (nhà cô của người bạn). Các anh thề
không ra trình diện. Ở đây, bọn anh trồng khoai, trồng lúa, đốn củi, lưới cá
(ai làm gì được thì làm) để nuôi sống nhau rồi sẽ tính tới… Cuộc sống lúc đầu
gặp rất nhiều khó khăn. Nhưng khắc phục lần lần nhờ vào lòng cương quyết và bất
khuất của anh em. Các anh bây giờ mỗi ngày một khá hơn, nhờ thanh niên, nhờ dân
hết lòng giúp đỡ. Gần đây, bọn anh liên lạc được nhiều nhóm nghĩa sĩ cùng chí
hướng ở rải rác từ Nam ra Bắc… Tịnh An, anh thật sự rất mừng khi nghe Tú Huệ
bảo em sắp ra đi. Có phải không?
Tịnh An lau vội dòng nước mắt, lanh
miệng:
- Bây giờ gặp lại anh rồi, em sẽ
không đi.
Tú Tâm chợt khựng lại, vì quyết định
bất ngờ của người yêu. Anh thẳng giọng:
-
Bậy nà, anh biết tấm lòng của em đối với anh. Nhưng em phải theo
gia đình ra ngoài đó.
-
Không, em đã quyết định rồi em sẽ ở lại và đi theo anh.
Tú Tâm cười buồn:
-
Anh không có nhà cửa, không ở nơi nào cố định. Em biết anh ở đâu mà đòi
đi theo?
-
Em không cần biết chuyện đó. Tại sao anh được còn em thì không?
-
Đừng có bướng nữa!
Tú Tâm cứng miệng trả lời, nhưng anh
trầm giọng:
- Xin em đừng để anh lo. Thực tế không như em tưởng đâu. Thương yêu anh thì em ra ngoài đó cố gắng
học hành. Nếu có thể, sau nầy có nhiều việc em sẽ giúp anh thực tiễn hơn. Đó là
điều mong ước của anh ở em…
Ngọn gió xuân đẫm sương càng về
khuya càng thấm lạnh. Ở nhà trên hình như mọi người tìm nơi nào đó nhắm mắt
dưỡng thần, ngủ tạm. Anh Hai được chị Tư cho mượn chiếc nóp (đương bằng đệm như
cái bọc dài chừng 2 thước, miệng lớn ở giữa cho người lăn vào được. Mí cửa đệm
ở trên rộng hơn chụp xuống giữ kín mí dưới. Nóp dùng để ngủ trên khô nơi nào
cũng được và dễ dàng di chuyển) nên anh xách xuống ghe ngủ cho không nghe vo ve
tiếng muỗi kêu. Gần nước sẽ ấm và không lo sợ ngủ trên bờ rắn rít nửa đêm chung
vào nằm ké.
Đêm
xuân nầy hai kẻ thương yêu được gặp lại nhau. Ngày xưa, họ là đôi nam tài nữ
mạo đầy mộng ước tươi sáng ở tương lai. Theo lớp sóng phế hưng của vận nước nổi
trôi, mối tình đẹp như gấm thêu hoa của họ giờ đây như không còn hy vọng gì
nữa! Tú Tâm kể cho người yêu nghe những chuyện anh biết và nghe thấy, trên
những đoạn đường anh đã đi qua. Những đoạn đường của chiến sĩ Cộng Hòa năm xưa
đi vào bưng, không ra trình diện sau ngày giặc cưỡng chiếm miền Nam (Tháng 30-
4-1975). Anh đã chứng kiến những chiến sĩ Việt Nam Cộng Hòa anh hùng bất khuất
đã nằm chết trên võng, chết ngồi dựa lưng bên gốc cây, hốc đá, bờ thác đồ ầm
ầm, tràm đước sầm uất trong rừng sâu U Minh Thượng, U Minh Hạ… Trên đồi núi
chập chùng của miền Trung… Mà trên tay họ vẫn trong thế ôm súng. Cây súng bạc
màu vì sương gió vẫn còn đó, bên bộ xương trắng khô!
Tịnh An
kể cho chàng nghe những chuyện xảy ra trong gia đình. Nỗi bất ngờ đau thương ba
má cô đã lần lượt qua đời. Chị em cô lâm vào cảnh túng quẩn… Đó là ách nạn
chung của người dân miền Nam không Cộng Sản! Cô kể những chuyện xảy ra của chòm
xóm, bạn bè thân hoặc quen mà hai người đã biết. Ai còn, ai mất? Ai bị đày đi
cải tạo ở các miền hoang du không lai vãng bóng người nơi miền Trung, miền Bắc?
Và ai đã bôn đào đã chết vì cướp, vì thiên tai ngoài biển cả? Ai đã đến được
bến bờ tự do…
Cơn gió
đêm xuân mát rượi đùa rào rào rừng tràm bên kia. Những con đôm đốm bám lấy
những cây bần cao dưới mé nước, dọc sát bờ kinh. Chúng chớp tắt, chớp tắt lòe
ánh sáng như cây thông được trang trí đèn màu trên những trang sách báo của
ngoại quốc. Như những cây thông có treo đèn hoa vào mùa Giáng Sinh ở sân nhà
thờ năm nào.
Bàn tay
Tịnh An trong tay Tú Tâm. Cả hai cảm thấy như có luồng hơi ấm truyền vào cơ thể
của đối phương. Tâm hồn họ phơi phới đón nhận hương xuân đêm nay. Họ đã quên đi
không gian, thời gian và nỗi buồn dài đăng đẳng sâu xé lòng mà trong phút chốc
đây họ phải chia tay không biết bao giờ mới gặp lại! Tịnh An chợt hỏi:
- Em nghe tiếng kêu của loài chim lạ? Con chim
gì đó anh?
- Không, đó là tín hiệu! Bọn anh phải lên
đường...
Tịnh An
nói mau:
- Hay anh và gia đình cùng đi với chúng em?
Trong
ánh lửa chập chờn, cô thấy rõ nụ cười nửa miệng, đôi mắt to sáng rỡ ngày xưa
của người yêu không thay đổi. Nhưng giờ đây đượm thêm nét ưu sầu ẩn tiềm trong
đôi mắt đó, anh ốm hơn, và nỗi âu lo hiện rõ những nét nhăn hằn trên vầng trán
cao, rộng. Tú Tâm cười buồn, nhẹ giọng:
- Nếu muốn ra đi thì anh rời nước trước ngày
giặc vào rồi. Em nhớ giữ gìn sức khỏe.
Anh như
nghẹn lời ngưng giây phút, rồi nói nhanh:
- Từ đây, cái gì em muốn làm thì hãy làm theo ý
mình, đừng có hy vọng và chờ đợi anh! Chúng ta gặp lại đây, thời gian hết sức
ngắn ngủi trong đêm xuân nầy, là Thượng Đế đã ban cho anh ân huệ lớn rồi. Cảm
ơn em Ôn Thị Tịnh An! Với anh thật đã quá hạnh phúc anh không ước gì thêm ở em.
Gà đã gáy rộ, nhưng màn tối của đêm
xuân vào đầu tháng giêng không trăng, vẫn còn bao phủ một màu đen dầy đặc. Gió
xuân ướp hơi sương lành lạnh quét trên da thịt mọi người. Tú Huệ ngồi giữa, ôm
mặt sụt sùi dòng lệ. Cậu Út ngồi bơi trước mũi, con trai cậu vẫn đứng chèo ở
sau lái. Tú Tâm đẩy mạnh cho ghe tách bến, vẩy tay chào mọi người rồi quay mặt
thoăn thoắt đi. Dáng anh mờ dần trong bóng đêm.
Tịnh
An lẩm bẩm theo điệu nhạc từ CD, bài “Xuân
Nơi Đây” trong chiếc máy hát vang điệu nhạc buồn, lời ca buồn héo hắt: “Xuân nơi đây không mai vàng đua nở/ Không hoa đào lộng lẫy dưới nắng xuân/ Không
trẻ con mặc áo quần rực rỡ/ Chạy tung
tăng đốt pháo, vỗ tay mừng/ Xuân nơi
đây không cây xanh lá thắm/ Không áo
dài tha thướt gió xuân bay/ Không nón
bài thơ khăn nâu yếm thắm/ Không
thoáng hương từ những khóm hoa lài/…Xuân nơi đây có tiếng lòng nức nở/ Tiếng
thở dài trong héo hắt nhớ thương/ Có nỗi lòng của những người xa xứ/ Đón xuân
về hồn thổn thức bâng khuâng…”
Đã bao
nhiêu mùa xuân qua nơi xứ người! Tịnh An bây giờ đã hai màu tóc! Nàng vẫn sống
vui, sống khỏe, sống trong hồi tưởng dấu yêu, sống trong chờ mong và tràn niềm
hy vọng. Vì trong lòng nàng đã có mùa xuân!
DƯ THỊ DIỄM BUỒN
Email:dtdbuon@hotmail.com
ĐT: (530) 822 5622
No comments:
Post a Comment