“Phiên gác Đêm Xuân”
Nguyễn Văn Đông
Cố Đại Tá VNCH – Nhạc Sĩ
– Nguyễn Văn Đông
Ngày đó Đồng Tháp Mười còn là đồng không mông
quạnh, lau sậy ngút ngàn, dân cư thưa thớt, sống co cụm trên những gò đất cao
giữa vùng đồng lầy nước nổi quanh năm. Người ở hậu phương lúc bấy giờ nhìn về
Đồng Tháp Mười như là vùng đất bí hiểm với những huyền thoại Lúa Ma nuôi quân
đánh giặc, về Tổng Đốc Binh Kiều, Thiên Hộ Vương thời chống Pháp qua những trận
đánh lẫy lừng ở Gãy Cờ Đen, Gò Tháp mà chiến tích được tạc vào bia đá ở Tháp
Mười Tầng còn lưu lại đến ngày nay. Mùa xuân năm đó, đơn vị tôi đóng trên Gò
Bắc Chiêng, có tên là Mộc Hoá, nằm sát biên giới Việt Nam-Campuchia, sau này là
Tỉnh lỵ Kiến Tường. Đơn vị của tôi đã có những cuộc giao tranh đẫm máu vào
những ngày giáp tết trên những địa danh Ấp Bắc, Kinh 12 và tuyến lửa Thông
Bình, Cái Cái, Tân Thành. Dù vậy, mùa xuân vẫn có cánh én bay về trên trận địa
và hoa sen Tháp Mười vẫn đua nở trong đầm dù bị quần thảo bởi những trận đánh
ác liệt. Cứ mỗi độ xuân về, sông Vàm Cỏ lại mang về từng đàn tôm cá từ biển hồ
Tông Lê Sáp, vượt vũ môn theo đám lục bình trôi về vùng Tam Giác Sắt, như nhắc
nhở Bộ Tư Lệnh Tiền Phương Đồng Tháp Mười lập danh sách cho những người được về
quê ăn Tết. Vì còn độc thân nên tên tôi được ưu tiên ghi vào Sổ Nhật Ký Hành
Quân và ở lại đơn vị trong những ngày Tết. Dù không ai nghĩ có đánh nhau ngày
đầu năm nhưng quân lệnh phãi được tuân hành nghiêm chỉnh. Trước ba ngày Tết,
tôi được lệnh lên chốt tiền tiêu, tăng cường cho cứ điểm, mang theo chiếc ba-lô
với chút hành trang lương khô, cùng tấm ảnh của người em gái hậu phương, cũng
là cơ duyên sau đó để tôi viết nên bài tình ca Sắc Hoa Màu Nhớ.
Tiền đồn cuối năm, đêm 30 Tết, trời tối đen
như mực, phút giao thừa lạnh lẽo hắt hiu, không bánh chưng xanh, không hương
khói gia đình. Tôi ngồi trên tháp canh quan sát qua đêm tối, chỉ thấy những
bóng tháp canh mờ nhạt bao quanh khu yếu điểm như những mái nhà tranh, chập
chờn dưới đóm sáng hỏa châu mà mơ màng về mái ấm gia đình đoàn tụ lúc xuân
sang. Thay cho lời chúc Tết là tiếng kẻng đánh cầm canh và tiếng hô mật khẩu
lên phiên gác. Vào đúng thời điểm giao thừa, ngọn đèn bão dưới chiến hào thắp
sáng lên như đón chào năm mới thì cũng là lúc những tràng súng liên thanh nổ
rền từ chốt tiền tiêu. Khi ấy vào buổi tinh mơ của trời đất giao hòa, vạn vật
như hòa quyện vào trong tôi, có hồn thiêng của sông núi, có khí phách của tiền
nhân. Tôi nghe tâm hồn nghệ sĩ của mình rộn lên những xúc cảm lạ thường, làm
nảy lên những cung bậc đầu tiên của bài Phiên Gác Đêm Xuân:
“Đón giao thừa một phiên gác đêm
chào Xuân đến súng xa vang rền.
Xác hoa tàn rơi trên báng súng
ngở rằng pháo tung bay
ngờ đâu hoa lá rơi…”
Rồi mơ ước rất đời thường:
“Ngồi ngắm mấy nóc chòi canh
mơ rằng đây máinhà tranh
mà ước chiếc bánh ngày xuân
cùng hương khói vương niềm thương…”
Bài Phiên Gác Đêm Xuân được ra đời trong hoàn
cảnh như thế, cách đây nửa thế kỷ, đánh dấu một chuỗi sáng tác của tôi về đời
lính như Chiều Mưa Biên Giới, Mấy Dặm Sơn Khê, Sắc Hoa Màu Nhớ, Khúc Tình Ca
Hàng Hàng Lớp Lớp, Xin Đừng Trách Anh, Lá Thư Người Lính Chiến, Anh Trước Tôi
Sau, Lời Giã Biệt… vân vân. Sau ngày 30 tháng Tư năm 75, các bản nhạc này cùng
chung số phận tan tác như cuộc đời chìm nổi của tôi.
Còn với hãng dĩa Continental:
Vào năm 1960, tôi và người bạn cao niên tên
là Huỳnh Văn Tứ, một nhà doanh nghiệp có tiếng ở Sàigòn, cùng đứng ra sáng lập
hãng dĩa Continental và Sơn Ca. Ông Huỳnh Văn Tứ phụ trách Giám Đốc Sản Xuất,
nhạc sĩ Nguyễn Văn Đông phụ trách Giám Đốc Nghệ Thuật. Chủ trương của chúng tôi
là nhắm vào hai bộ môn Tân Nhạc và Sân Khấu Cải Lương Ca Cổ. Về lãnh vực Tân
Nhạc, tôi cho ra đời hàng trăm chương trình mang dấu ấn của hãng Continental,
Sơn Ca, Premier. Chính hãng Continental, Sơn Ca đã đi tiên phong trong việc
thực hiện Album riêng cho từng cá nhân ca sĩ, như Khánh Ly với Sơn Ca số 7, Lệ
Thu với Sơn Ca số 9, Thái Thanh và Ban Hợp Ca Thăng Long với Sơn Ca số 10 và
nhiều Album cho Phương Dung, Thanh Tuyền, Giao Linh, làm vinh danh những tài
năng này ở thập niên 60 và 70. Riêng về bộ môn Sân Khấu Cải Lương Ca Cổ , tôi
đã thực hiện hàng trăm chương trình Tân Cổ Giao Duyên và trên 50 vở tuồng cải
lương kinh điển nổi tiếng như Nửa Đời Hương Phấn, Đoạn Tuyệt, Tiếng Hạc Trong
Trăng, Sân Khấu Về Khuya, Mưa Rừng… vân vân. Chính trong thời gian này, tôi tạo
thêm hai bút danh nữa là nhạc sĩ Phượng Linh và soạn giả Đông Phương Tử, nhằm
phục vụ cho bộ môn Cải Lương Sân Khấu và Tân Cổ Giao Duyên. Bút danh Phượng
Linh để sáng tác phần nhạc đệm và bài ca tân nhạc lồng trong các vở tuồng cải
lương, phối hợp với giàn cổ nhạc gồm những danh cầm như Văn Vỹ, Năm Cơ, Hai
Thơm. Còn bút danh Đông Phương Tử là soạn các bài tân cổ giao duyên và đạo diễn
thâu thanh các vở tuồng cải lương. Tiếc thay, những công trình tâm huyết đó đã
bị gạt ra bên lề xã hội sau biến cố lịch sử 30 tháng Tư năm 1975.
Nói về những nhạc phẩm sau này, nhạc sĩ NVĐ
tâm sự
Sau tháng 4/1975, tôi đi học tập “cải tạo” 10
năm. Khi trở về nhà, tôi mang theo nhiều chứng bệnh trầm trọng, tinh thần và
thể xác bị suy sụp. Suốt 30 năm qua, tôi không tham gia bất cứ hoạt động nào ở
trong nước cũng như ngoài nước. Vào năm 2003, nhà nước Việt Nam có cho phép lưu
hành 18 bài hát của tôi, gồm: Hải Ngoại Thương Ca, Nhớ Một Chiều Xuân, Về Mái
Nhà Xưa, Khi Đã Yêu, Đom Đóm, Thầm Kín, Vô Thường, Niềm Đau Dĩ Vãng, Tình Cố
Hương, Cay Đắng Tình Đời, Tình Đầu Xót Xa, Khúc Xuân Ca, Kỷ Niệm Vẫn Xanh,
Truông Mây, Bài Ca Hạnh Phúc, Bông Hồng Cài Áo, Trái Tim Việt Nam, Núi và Gió.
Rất tiếc một số bài hát tâm đắc không được
nhà nước cho phép. Tôi hy vọng rồi đây theo thời gian mọi việc sẽ tốt đẹp hơn.
Đặc biệt trong lãnh vực văn hoá, văn nghệ, tôi nghiệm rằng những gì có giá trị
nghệ thuật, dù bị vùi dập vì sự ganh tỵ hay hiểu lầm, sẽ có ngày được mang trả
lại vị trí đích thực của nó. Tôi chỉ tiếc đời người ngắn ngủi mà tôi đã phí
phạm quãng thời gian dài 30 năm. Thật lấy làm tiếc!
Kể về hai cô ca sĩ học trò Giao Linh và Thanh
Tuyền
Với Giao Linh có nhiều kỷ niệm khó quên. Tôi
nhớ lại, vào một sáng Chúa Nhựt năm 1965, nhạc sĩ Thu Hồ đưa đến nhà tôi một cô
bé gầy gò ốm yếu. Cô đến bằng chiếc xe máy mini Velo Solex, nhưng không đủ sức
đẩy xe qua thềm nhà tôi, phải nhờ nhạc sĩ Thu Hồ giúp đở. Cô bé ngồi im lặng
như đóng băng không nói năng chi, trong khi nhạc sĩ Thu Hồ thao thao bất tuyệt
về khả năng âm nhạc tiềm ẩn trong người cô. Tôi nhìn cô bé 16 tuổi, vóc dáng nhỏ
nhắn, không phát triển như những cô gái cùng trang lứa, nghĩ thầm làm sao cô bé
này có đủ hơi sức để hát hò. Tôi gợi chuyện vui để cho cô bắt chuyện, qua đó
khám phá cái duyên ngầm sân khấu mà trong nghề nghiệp gọi là tổ đãi cho người
nghệ sĩ. Nhưng cô bé vẫn không cười không nói, nên buổi gặp gở đầu tiên đó, tôi
không dự cảm được gì về cô. Tuy nhiên, để không phụ lòng nhạc sĩ Thu Hồ, tôi
cho một cái hẹn thử giọng cô bé Đỗ Thị Sinh tại phòng thu âm của hãng dĩa
Continental. Thật bất ngờ, Giao Linh, cái tên nghệ nhân sau này của cô bé Đỗ
Thị Sinh, đã gây sửng sốt bằng chất giọng khỏe khoắn. Cô hát vượt qua tầm cữ
quãng tám một cách dễ dàng với làn hơi ngân nga dịu dàng truyền cảm. Hãng dĩa
Continental chấp nhận, tôi lên chương trình đào tạo, và chỉ sau một thời gian
ngắn, tên tuổi ca sĩ Giao Linh bừng sáng trên vòm trời nghệ thuật, sánh vai
cùng đàn anh đàn chị đi trước. Khi ấy Giao Linh vừa tròn 17 tuổi. Riêng cái tên
mỹ miều “Nữ Hoàng Sầu Muộn” mà người đời ban tặng cho Giao Linh, chỉ vì cô
không mỉm môi cười thì Giao Linh mãi mãi mang theo, dù từ lâu rồi cô đã có một
gia đình rất hạnh phúc.
Truờng hợp Thanh Tuyền cũng có nhiều kỷ niệm đặc biệt. Đó là vào năm 1964, tôi đi nghỉ dưởng sức ở Đàlạt. Bạn bè thân hữu ở Đài Phát Thanh đến thăm hỏi, có giới thiệu giọng hát cô bé Như Mai nhiều triển vọng. Cô là nữ sinh Trường Bùi Thị Xuân, hàng tuần có tham gia hát ở Đài Phát Thanh Đàlạt. Rồi nhân dịp nghỉ hè, Trường Bùi Thị Xuân tổ chức phát thưởng bế giảng năm học, mời tôi đến dự lễ. Đến phần văn nghệ, người dẫn chương trình giới thiệu “nữ sinh Như Mai hát tặng cho khách quý đến từ Saigòn”. Giọng cô nữ sinh Bùi Thị Xuân lảnh lót cất lên, khỏe khoắn đầy nội lực thanh xuân, âm vang làm rộn rã cả sân trường. Tôi nghe cháy bỏng một ước mơ, một hy vọng mà cô bé như muốn ngỏ cùng ai. Khi chấm dứt bài hát, Như Mai ngước nhìn tôi. Tôi hiểu ý nên mời cô bé lên gặp tôi trên khán đài và hỏi: “Cháu có muốn trở thành ca sĩ không?”. Như Mai xúc động gật đầu. Sau đó tôi gập thân sinh của Như Mai và bàn chuyện đưa cô bé về Saigòn để đào tạo thành ca sĩ. Khi ấy, tôi còn độc thân, ngày ngày ăn cơm chợ, tối tối ngủ ở đơn vị, thật không tiện chút nào để đở đần một cô gái trẻ xa nhà như vậy. Thế nên, sau khi bàn bạc với Ban Giám Đốc Hãng Dĩa Continental, tôi nhờ nhạc sĩ Mạnh Phát lên Đà Lạt rước Như Mai về Saigòn, tá túc trong gia đình của ông, cũng là gia đình của đôi nghệ sĩ tài danh Minh Diệu-Mạnh Phát thời bấy giờ. Mọi phí tổn ăn ở do Hãng Đĩa Continental đài thọ. Tôi lên chương trình đào tạo và đặt tên mới cho Như Mai là Thanh Tuyền, ý muốn nói là giòng suối xanh của Cao nguyên Đàlạt. Chỉ trong vòng 8 tháng có mặt ở thủ đô Saigòn, Thanh Tuyền đã có đĩa và băng nhạc giới thiệu với người yêu nhạc. Như con chim lạ từ xứ sương mù, một bông hoa rừng còn đẫm ướt hơi sương, Thanh Tuyền nhanh chóng chiếm được sự mến mộ của người yêu nhạc thủ đô, sánh vai cùng đàn anh đàn chị trên Đài Phát Thanh, trên sân khấu Đại Nhạc Hội, phòng trà ca nhạc, được báo giới Sàigòn không tiếc lời ca ngợi. Năm ấy, Thanh Tuyền vừa đúng 17 tuổi.
Riêng đối với tôi vẫn còn xanh mãi một kỷ
niệm về ngày khởi đầu đi hát của Thanh Tuyền tại Sài Gòn. Theo chương trình,
Thanh Tuyền hát ra mắt lần đầu tiên ở phòng trà Bồng Lai và Vũ trường Quốc Tế
đường Lê Lợi Saigon. Tôi đích thân đi mua son phấn để cho Thanh Tuyền trang
điểm khi đi hát. Tôi thật bất ngờ khi biết Thanh Tuyền chưa từng sử dụng hộp
phấn cây son trước đó. Khi đến giờ trình diễn, tôi đưa Thanh Tuyền đến Viện
Thẩm Mỹ, Salon Make Up, nhưng các cửa tiệm đều đóng cửa vì trời đã khuya. Quá
lo lắng, tôi kéo Thanh Tuyền chạy men theo đường Lê Lợi mong tìm người quen
giúp đở. Nhưng không gập được ai mà thời gian lại gấp rút nên thầy và trò đành
ngồi bệt ngay trên vỉa hè Lê Lợi. Nhờ ánh sáng đèn đường, tôi đánh phấn tô son
cho Thanh Tuyền mà trước đó, tôi cũng chưa từng biết gì về cây son hộp phấn
Chanel. Rồi Thanh Tuyền chạy bay lên lầu phòng trà Bồng Lai để kịp giờ trình
diễn, còn tôi nện gót trên lề đường Lê Lợi, lòng ngập tràn cảm xúc khi tiếng
hát Thanh Tuyền cất lên, đánh dấu ngày khởi nghiệp của ca sĩ Thanh Tuyền giữa
thủ đô Sàigòn hoa lệ. Đến bây giờ, sau 40 năm ngồi nhớ lại, tôi dám đoan chắc
rằng, đây là người thiếu nữ duy nhứt trong đời mà tôi đã kẻ lông mày, “tô son
trét phấn” rồi tung con chim Sơn Ca vào bầu trời bao la, bởi vì cô là… của muôn
người.
Về Hà Thanh, con chim hoạ mi đất thần kinh,
người được xem như gắn liền với một số nhạc phẩm của Nguyễn Văn Đông, ông tâm
sự
Lần đầu tiên, tôi được gập cô Hà Thanh là vào
năm 1963 tại Đài Phát Thanh Sàigòn ở số 3 đường Phan Đình Phùng ngày xưa, bây
giờ là đường Nguyễn Đình Chiễu. Khi ấy, tôi là Trưởng Ban TIẾNG THỜI GIAN của
Đài Sàigòn với các ca sĩ như Lệ Thanh, Khánh Ngọc, Trần văn Trạch, Minh Diệu,
Mạnh Phát, Thu Hồ, Anh Ngọc v.v. Ngày đó cô Hà Thanh từ Huế vào Sàigòn thăm
người chị gái lập gia đình với một vị Đại tá đang làm việc ở Sàigòn. Chính nhạc
sĩ Mạnh Phát cho tôi biết về cô Hà Thanh nên tôi nhờ Mạnh Phát liên lạc mời cô
Hà Thanh đến hát với Ban Tiếng Thời Gian. Đây là lần đầu tiên tôi được tận tai
nghe tiếng hát Hà Thanh, hát nhạc sống và hát thật ngoài đời với ban nhạc của
tôi, không nghe qua làn sóng phát thanh hay qua băng đĩa nhạc. Điều này giúp
cho tôi có cơ sở nhận định chính xác về giọng hát Hà Thanh. Tôi hiểu ngay đây
là giọng ca thiên phú, kỹ thuật tốt, làn hơi diễm cãm tuyệt đẹp, là một vì sao
trong những vì sao hiếm hoi ở đỉnh cao nghệ thuật nhưng chưa có cơ hội phát
tiết hết hào quang của mình. Ngay sau đó, tôi có mời Hà Thanh thâu thanh cho
Hãng đĩa Continental. Nếu tôi nhớ không lầm thì bản nhạc đầu tiên tôi trao cho
Hà Thanh là bài VỀ MÁI NHÀ XƯA do tôi sáng tác. Lần đó, cô Hà Thanh hát thật
tốt, toàn ban nhạc và Ban Giám Đốc Hãng Continental rất hài lòng, khen ngợi.
Sau ngày đó, cô Hà Thanh từ giã trở về lại Huế, trở về lại với Cố đô trầm mặc,
tĩnh lặng, không sôi nổi như Thủ Đô Saigòn, là cái nôi của âm nhạc thời bấy
giờ.
Sau khi Hà Thanh trở về Huế, tôi có nhiều suy
tư về giọng hát đặc biệt này. Tôi ví von, cho đây là vì sao còn bị che khuất,
chưa toả hết ánh hào quang, vì chưa có hoàn cảnh thuận lợi để đăng quang, nếu
phó mặc cho thời gian, cho định mệnh, có thễ một ngày kia sẽ hối tiếc. Vì vậy
tôi đem việc này ra bàn với Ban Giám Đốc Hãng đĩa Continental để mời cô Hà
Thanh vào Sàigòn cộng tác. Chính tôi viết thư mời cô Hà Thanh vào Sàigòn với
những lý lẽ rất thuyết phục, rất văn nghệ, rất chân tình. Và cô Hà Thanh đã vào
Sàigòn sau khi đã tranh đấu gay go với gia đình bố mẹ, vốn giữ nề nếp cỗ xưa
của con người xứ Huế. Ngày đó Hà Thanh vào Sàigòn, hoà nhập vào đời sống người
Sàigòn, vào nhịp đập âm nhạc Sàigòn, vốn đứng đầu văn nghệ cả nước. Hà Thanh đi
thâu thanh cho Đài Sàigòn, Đài Quân Đội và nhận được lời mời tới tấp của các
Hãng đĩa băng nhạc như Sóng nhạc, Việt Nam, Tân Thanh, Tứ Hải và hầu hết các
Trung Tâm ở Thủ Đô Sàigòn, chứ không phải chỉ riêng cho Hãng dĩa Continental và
Sơn Ca của tôi. Ngày đó, tiếng hót của con chim Sơn Ca đất Thần Kinh đã được
vang thật xa, đi vào trái tim của hàng triệu người yêu mến tiếng hát Hà Thanh.
Cô Hà Thanh hát hầu hết các tác phẩm của tôi.
Bài nào tôi cũng thích, cũng vừa ý, có lẽ vì vậy mà tôi không nghĩ đến chuyện
viết bài đặc biệt cho riêng cô. Tôi nhớ lại một chuỗi những sáng tác trong thời
binh lửa chiến tranh như Chiều Mưa Biên Giới, Sắc Hoa Màu Nhớ, Khúc Tình Ca
Hàng Hàng Lớp Lớp, Mấy Dặm Sơn Khê, Lá Thư Người Lính Chiến,Phiên Gác Đêm Xuân,
Anh Trước Tôi Sau, Lời Giã Biệt vân vân, đều rất hợp với tiếng hát Hà Thanh và
cô hát rất thành công. Tôi cho rằng Hà Thanh không chỉ hát mà còn sáng tạo
trong khi hát. Hà Thanh đã tạo thêm những nốt luyến láy rất truyền cảm, rất mỹ
thuật làm cho bài hát của tôi thêm thăng hoa, trong giai điệu cũng như trong
lời ca. Tôi cho rằng khi hát cô Hà Thanh đã sống và cùng đồng điệu sẻ chia với
tác gỉa khi trình bày một bản nhạc có tầm vóc nghệ thuật.
Tôi cho rằng Hà Thanh có giọng hát thiên phú,
cô hát rất thoải mái dễ dàng, không cầu kỳ, không cường điệu, không gò bó nhưng
nó cuốn hút ta đi trong cái bềnh bồng không gò ép đó. Tôi cám ơn tiếng hát của
Hà Thanh đã mang lại cho các bài hát của tôi thêm màu sắc, thêm thi vị, bay
bổng. Trước khi đến với Hà Thanh, tôi cũng rất ngưởng mộ tiếng hát của cô Thái
Thanh, Lệ Thanh, Khánh Ngọc và nhiều người khác đã gieo khắp phương trời tiếng
lòng của tôi, cũng như về sau này có thêm các cô học trò như Thanh Tuyền, Giao
Linh đã giúp cho ông Thầy truyền tải đến trái tim người yêu nhạc. Nhưng đặc
biệt, tiếng hát Hà Thanh đã để lại trong tôi nhiều kỹ niệm tốt đẹp, bền bỉ tuy
thời gian ngắn ngủi kể từ khi cô bỏ đi lấy chồng để tôi độc hành trên đường
nghệ thuật. Sau biến cố 1975, tôi không còn dịp hợp tác với cô Hà Thanh như
trước đây. Nhưng thỉnh thoảng tôi được nghe cô hát một sáng tác mới của tôi ở
hải ngoại, tôi vẫn cảm thấy tiếng của cô vẫn đậm đà phong cách ngày xưa, vẫn
một Hà Thanh diễn cảm, sang trọng, sáng tạo trong khi hát, mặc dù thời gian
chia cách đã 40 năm qua.
Nguyễn
Văn Đông
Cuộc đời binh nghiệp
Nguyễn Văn Đông sinh ngày 15 tháng 3 năm 1932 tại quận 1, Sài Gòn nhưng nguyên quán của ông ở Lợi Thuận, Bến Cầu, Tây Ninh. Thuở bé, do điều kiện gia đình, ông học ở nhà dưới sự hướng dẫn của thầy học. Sau ông theo học bậc trung học tại trường Huỳnh Khương Ninh, Đa Kao.
Năm 1945, chính quyền Pháp đóng cửa trường Huỳnh Khương Ninh. Năm 1946, gia đình gửi ông vào trường Thiếu sinh quân Việt Nam ở Vũng Tàu, khi đấy ông mới 14 tuổi.
Thời gian tại trường Thiếu sinh quân Vũng Tàu, ông được học nhạc với các giảng viên âm nhạc của Học viện Âm nhạc Quốc gia Pháp sang giảng dạy. Chỉ sau một thời gian ngắn sau, ông trở thành một thành viên của ban quân nhạc thiếu sinh quân, học cách sử dụng nhiều loại nhạc cụ khác nhau. Năm 16 tuổi, ông đã có những sáng tác đầu tay như "Thiếu sinh quân hành khúc", "Tạm biệt mùa hè"...
Sau khi tốt nghiệp trường Thiếu sinh quân Vũng Tàu, ông nhập ngũ chính thức vào Quân đội Quốc gia Việt Nam. Năm 1951, ông được cử theo học khóa 4 trường Võ bị Sĩ quan Vũng Tàu và tốt nghiệp thủ khoa với cấp bậc Thiếu úy vào năm 1952. Năm sau, ông được cử đi học khóa huấn luyện "Ðại đội trưởng" tại trường Võ bị Ðà Lạt. Năm 1954, ông được gửi ra Hà Nội theo học khóa "Tiểu đoàn trưởng" tại trường chiến thuật Hà Nội. Ra trường, ông nhận chức vụ Tiểu đoàn trưởng Tiểu đoàn trọng pháo 553, trở thành Tiểu đoàn trưởng trẻ nhất của Quân đội Quốc gia Việt Nam khi mới 24 tuổi.
Sau Hiệp định Genève, 1954, ông chuyển vào Nam, phục vụ tại Phân khu Đồng Tháp Mười với chức vụ Trung úy Trưởng phòng Hành quân. Thời gian này, ông còn kiêm nhiệm chức Trưởng phòng 3 (Tác chiến) của Phân khu, dưới quyền Đại tá Nguyễn Văn Là, tham gia Chiến dịch Thoại Ngọc Hầu 1956. Bấy giờ, tướng Dương Văn Minh là Tư lệnh chiến dịch, từng đến bắt tay ông tỏ lòng ngưỡng mộ. Bức ảnh chụp tướng Minh bắt tay ông đã được in trên trang nhất của báo Chiến sĩ Cộng hòa. Ông thăng đến chức đại tá trong Quân lực Việt Nam Cộng hòa.
Sau sự kiện 30 tháng 4, 1975, Nguyễn Văn Đông bị bắt đi học tập cải tạo 10 năm và ngừng sáng tác từ đó. Hiện ông sống tại Phú Nhuận, thành phố Hồ Chí Minh cùng gia đình.
Hoạt động trong lĩnh vực âm nhạc
Nguyễn Văn Đông từng nhiều năm hoạt động
trong lĩnh vực âm nhạc ở Sài Gòn trước 30 tháng 4 năm 1975. Trong thập niên
1950, Nguyễn Văn Đông nổi tiếng khi là Truởng Đoàn văn nghệ Vì Dân với thành
phần ca nhạc sĩ tên tuổi như Mạnh Phát, Minh Kỳ, Hoài Linh, Thu Hồ, Quách Đàm,
Minh Diệu, Khánh Ngọc và các nghệ sĩ danh tiếng như Kim Cương, Vân Hùng, Ba
Vân, Bảy Xê, Trần Văn Trạch, diễn viên điện ảnh Trang Thiên Kim... Ông đã tổ
chức và điều khiển các chương trình đại nhạc hội tại Sài Gòn và khắp các tỉnh
của Việt Nam Cộng hòa.
Từ năm 1958, Nguyễn Văn Đông là trưởng ban ca
nhạc Tiếng Thời Gian của Đài Phát thanh Sài Gòn, gồm những danh ca, nhạc sĩ
danh tiếng như Lệ Thanh, Hà Thanh, Minh Diệu, Khánh Ngọc, Mạnh Phát, Thu Hồ,
Quách Đàm, Anh Ngọc... Năm sau ông là trưởng ban tổ chức Đại hội thi đua Văn
nghệ toàn quốc ở cấp quốc gia, đã huy tụ trên 40 đoàn văn nghệ đại diện cho cả
miền Nam cùng tranh giải suốt 15 ngày đêm tại Sài Gòn. Ông cũng từng nhận giải
âm nhạc quốc gia, một giải thường do Đệ nhất phu nhân Trần Lệ Xuân trao tặng.
Nguyễn Văn Đông còn là giám đốc hãng băng đĩa
nhạc Continental và Sơn Ca, cộng tác với những nhạc sĩ tên tuổi như Lê Văn
Thiện, Văn Phụng, Nghiêm Phú Phi, Y Vân... Hai cơ sở của ông cho ra đời nhiều
chương trình tân nhạc cũng như cổ nhạc gồm các vở tuồng và cải lương. Chính
Nguyễn Văn Đông là người đã tiên phong thực hiện album riêng cho từng ca sĩ mà
trước đó chưa từng ai làm. Ông đã thực hiện loạt băng nhạc Sơn Ca nổi tiếng
trong đó có Khánh Ly với băng nhạc Sơn Ca 7, Thái Thanh và ban Thăng Long - Sơn
Ca 10, Lệ Thu - Sơn Ca 9, Phương Dung - Sơn Ca 5 và 11, Giao Linh - Sơn Ca 6,
Sơn Ca - Sơn Ca 8... và một số album riêng cho Trịnh Công Sơn.
Nhiều sáng tác của Nguyễn Văn Đông viết về
chủ đề người lính miền Nam thời đó. Nhạc phẩm "Phiên gác đêm xuân"
được ông viết vào đêm 30 Tết năm 1956 khi gác phiên ở khu 9 Đồng Tháp Mười.
"Chiều mưa biên giới" ra đời năm 1956 và nổi tiếng qua tiếng hát của
Trần Văn Trạch. "Chiều mưa biên giới" và "Mấy dặm sơn khê"
đã từng gây cho ông nhiều khó khăn khi bị Bộ Thông tin Việt Nam Cộng hòa ra
quyết định cấm phổ biến vì lý do phản chiến vào năm 1961. "Khúc tình ca
hàng hàng lớp lớp" nổi tiếng qua tiếng hát của Hà Thanh nhưng thường bị
nhầm với nhạc phẩm Khúc tình Kinh Kha của Phạm Duy. Hà Thanh cũng chính là ca
sĩ trình bày thành công nhất các nhạc phẩm của ông.
Nguyễn Văn Đông còn có nhiều bút danh khác
như Phượng Linh, Phương Hà trên một số nhạc phẩm tình cảm như "Khi đã
yêu", "Thầm kín", "Niềm đau dĩ vãng", "Nhớ một
chiều xuân"... Với bút danh Đông Phương Tử và Phượng Linh, ông đã viết
nhạc nền và đạo diễn cho trên 50 vở tuồng, cải lương nổi tiếng ở miền Nam trước
năm 1975 như Nửa đời hương phấn, Đoạn tuyệt, Tiếng hạc trong trăng, Mưa rừng...
No comments:
Post a Comment