Saturday, June 2, 2018

Trư Cuồng (tiếp theo) - Nguyễn Xuân Khánh


Trư Cuồng (tiếp theo)

 


 

Tôi nhớ lại cái phòng hỏi cung trần trụi mà năm ấy tôi vẫn thường ngày phải lui tới hai buổi chăm chỉ, đều đặn như một chú học trò. Chiếc phòng rộng, ở giữa kê một chiếc bàn và hai chiếc ghế, một chiếc dành cho người cán bộ an ninh, và một chiếc ghế dành cho tôi. Căn phòng trần trụi mầu trắng lạnh, không có một vật gì thừa. Chỉ một chiếc bàn và hai chiếc ghế, một mẩu giấy lộn cũng không, một cái đinh vô dụng cắm bâng quơ trên tường cũng không, một con gián, một con nhện cũng không. Không có một sinh vật nào, một đồ vật nào nằm ngoài mục đích lại được phép có mặt; có lẽ người ta sợ một sự phân tán, một sự liên tưởng nào đấy có hại cho sự tập trung của kẻ bị hỏi. Của đáng tội, cũng có hai vật thừa. Đằng trước mặt tôi, tức là dằng sau người cán bộ an ninh, phía trên cao tường có treo một bằng khen, ông bộ trưởng đã ngợi khen một tổ trinh sát số 3 nào đó đã phá tan một vụ án chính trị nào đó, một cách xuất sắc. Vụ nào nhỉ? Những ai bị bắt? Họ là những người ra sao? Những người phe phái, hay những kẻ lý tưởng điên cuồng, hay những con người vô tội chỉ thèm khát sự công bằng, những kẻ bị bắt vì còn chút lương tâm? Thế đấy! Có lẽ tờ giấy trên tường kia tồn tại cũng chỉ vì mang một công năng đàn áp, muốn đè bẹp ý chí của kẻ bị hỏi cung ngay từ phút đầu nhìn thấy nó. Nó như muốn cười mỉm một nụ cười bí mật và khoe rằng: đừng có ảo tưởng che giấu, chúng tôi biết hết, chúng tôi có nghìn mắt nghìn tay. Và sau lưng tôi cũng có một vật thừa thứ hai: cái ba lô bộ đội trong chỉ có chiếc bàn chải đánh răng, vài bộ đồ lót, một chiếc áo bông… Người cán bộ an ninh đã bảo tôi phải mang đến:

- Anh hãy mang ba lô đến hàng ngày. Để ở góc phòng ấy. Anh bướng lắm. Ngoan cố. Không khai hết sự thật. Kẻ cầm đầu đã khai hết rồi. Bạn bè anh đã khai hết rồi. Còn anh, sao anh vẫn quanh co? Nếu còn tiếp tục vòng vo thì sẵn ba lô đấy, chúng tôi phải bắt buộc có biện pháp cứng rắn, cho anh ngồi vào một phòng giam để anh suy nghĩ…

Tôi im lặng. Thì ra cái ba lô cũng chẳng phải vật thừa. Nó là của tôi; chiếc ba lô tôi đã được phát trong bộ đội, năm 1953. Nó đã theo tôi lang thang lên rừng, xuống biển. Bây giờ nó lại ở bên tôi. Trước kia khác, bây giờ khác, cả chiếc ba lô vô tri vô giác kia lúc này cũng chống lại tôi. Cái vật dụng thân quen mà tôi vẫn cõng trên lưng ấy, lúc này cũng là một vật nhắc nhở, đe dọa.

Người cán bộ an ninh chăm chú đọc tờ lời khai tôi viết hôm trước. Trên trán anh bỗng xuất hiện những nét cau có. Cuối cùng, anh ngẩng đầu lên, bỏ chiếc kính ra. Rồi anh đứng dậy giảng cho tôi như giảng cho một chú học trò:

- Ha ha! Thật là bác học. Anh dẫn ra nào là Nguyễn Du, là Marx, là Dos, là… Thôi đi! Anh định làm trò gì, chúng tôi đã đi guốc vào bụng anh. Anh định đóng kịch, làm trò thông thái rởm… Thoát bào nhượng vị. Cởi áo bào ra, trốn lủi, để chúng tôi đuổi theo cái vỏ áo bào tư biện. Chúng tôi không có thì giờ cãi cọ với anh về lý luận.

- Chúng tôi sai về tư tưởng… vì vậy tôi kiểm điểm tư tưởng…

- Không phải sai tư tưởng mà là hành động. Anh đã hành động.

- ???

- Đảng nói A, anh cãi lại B. Nói cho người khác nghe tức là vận động kẻ khác theo mình. Nói khác tức là đã hành động chống đối. Anh hiểu chưa?

- ???

- Lại còn vờ vĩnh: “Tôi không làm chính trị”. Bộ anh ngây thơ đến thế sao? Sở dĩ anh muốn trốn hai chữ chính trị vì anh có ý thức là anh đã mắc vào một tội ác to nhất trong xã hội chúng ta: tội chống Đảng.

- Không! Tôi là người viết báo, viết văn.

Người cán bộ an ninh đập bàn và con mắt sau cặp kính của anh bỗng long lanh tức giận. Anh nói to, dằn từng tiếng:

- Các anh đã tổ chức chống Đảng.

- Tổ chức?

- Tổ chức! Đúng vậy! Tổ chức chính trị khéo léo.

Tôi im lặng. Tôi đã hiểu từ lâu người ta muốn dẫn tôi đến cái nút ấy, cái thòng lọng ấy. Khi cái thòng lọng đã quàng vào cổ rồi, nhưng do bản năng tự vệ, tôi vẫn cố rãy rụa, cố bào chữa. Tôi đứng lên và nói rất to:

- Các ông không có chứng cứ. Làm gì có tổ chức …

Người cán bộ an ninh chỉ vào mặt tôi và cũng quát:

- Ngồi xuống! Tội của anh càng nặng thêm vì cố tình vòng vo trốn tránh…

“Vòng vo! Vòng vo! ”…

Những tiếng vang kỷ niệm xa xôi ấy, lúc này bỗng lại sống dậy trong óc tôi. Tôi cố ôm lấy đầu, che kín đôi tai, để khỏi nghe tiếng của Lân. Nhưng che làm sao được. Giọng của Lân khích nộ, cũng có tính chất rao giảng như giọng của anh cán bộ an ninh hôm xưa.

- Khi ta yêu một điều gì, ghét một điều gì tức là ta đã làm chính trị. Chỉ khi nào hết yêu ghét, tức là đến ngày tận thế, thì bấy giờ mới hết chính trị. Chính vì vậy, khi nói không làm chính trị, ta đã tự lừa dối, ta đã hèn nhát lẩn trốn. Anh nói nuôi lợn như một nghệ thuật, tức là anh đã tự phỉnh nịnh, tự coi mình hơn kẻ khác, trong khi đó thực chất anh đang tôn vinh cho sự vô liêm sỉ, sự nô lệ… Chính vì vậy nên tôi khinh bỉ con lợn Bò…

Lân im lặng nghỉ một lát rồi tuyên bố:

- Chuồng lợn cũng là một sân khấu chính trị.

Tôi cúi đầu, không cãi lại. Trong lòng tôi bỗng dấy lên một nỗi buồn phiền mơ hồ. Hôm nay, tôi hình như đã hiểu thêm một chiều độ của bản thân. Có lẽ Lân nói đúng. Tôi đã trốn chạy, và hình như tôi đã lập lờ… ngay cả khi nuôi lợn.

Trời ơi! Tôi muốn trốn lên núi quá. Người xưa lên núi để trốn việc đời. Ngày nay, trên núi cũng có đời. Nuôi lợn là một cách “trốn vào núi” hiện đại. Nhưng hoá ra, trong chuồng lợn cũng có đời.

Ngày… tháng…

Kỳ lương dạy học tư đầu tiên của con tôi, Linh mang về ba ki lô gam tóp mỡ. Cậu sinh viên mê triết học ấy cười khanh khách:

- Bố ơi! Đúng là cách mạng. Đảo lộn hết cả nếp đời. Mọi cung cách sống thay đổi đến tận gốc rễ. Hết mọi sĩ diện, mọi đài các, mọi thớ lợ. Khi con bưng rổ tóp mỡ đi dọc phố xá, những người quen thuộc nói: “Cậu Linh trúng rồi nhé. Bao nhiêu là tóp mỡ!” Có người hỏi mua, trả mười lăm đồng một ký, nhưng con không bán. Con dành cho lợn của bố.

Tôi cười:

- Thế là cậu còn sĩ diện hão. Đáng lẽ ra cậu nên bán đi hai ki lô, như vậy cũng được ba chục bạc đỡ mẹ cậu mua gạo.

- Linh vẫn cười ròn:

- Đúng như bố đã tưởng tượng ra cảnh trả lương. Chú Hợi bắc cái cân ra, treo bên cạnh dò phong lan tai trâu, rồi cân trả lương cho con. Cân xong, ông ấy bốc thêm một nắm, vứt vào cái rá và nói: “Đây là phần thưởng thêm cho cháu đã giúp chú tháng qua rất tốt.”

Hôm nay, bà vợ tôi, cả gia đình tôi bỗng nhiên vui hẳn lên; có lẽ không khí ấy do mùi ngầy ngậy của tóp mỡ tạo nên.

Vợ tôi hôm nay cũng biết nói đùa:

- Nhà chú Hợi có hai cô con gái. Cái Lan học lớp bẩy mày đang dạy thì còn bé. Chị nó là cái Cúc làm thợ dệt năm nay thường dễ đã hai mươi. Con bé hay đáo để, Linh nhỉ?

Đôi tai con tôi bỗng đỏ nhừ, nhưng nó vẫn vui vẻ:

- Cô ấy rất hay, mẹ ạ.

- “Hay” nghĩa là thế nào? Tôi hỏi.

- Nghĩa là cô ta khác hẳn tính ông bố. Ông bố bông phèng, còn cô ta kín đáo. Ông bố tính toán, còn cô ta thì thờ ơ vô tư lự trước tiền bạc…

- Cái tính ấy có lẽ hợp với mày Linh ạ – Tôi cười – A, mẹ mày thích mày có vợ rồi đấy.

Tai con tôi đỏ thêm. Cậu ta lắc đầu:

- Khó lắm bố ơi!

- Sao lại khó?

- Bởi vì chú Hợi yêu cầu rể của chú phải có một điều kiện. Một hôm chú ấy tuyên bố: ”Đứa nào lấy cái Cúc nhà tao, dứt khoát phải biết làm nghề đồ tể”.

- Đồ tể?

Cả nhà tôi cười ròn. Linh giải thích thêm:

- Điều kiện ấy của chú Hợi rất khôn ngoan. Thứ nhất: nếu chàng rể là đồ tể, thì người đó không thể nào coi thường ông bố vợ vốn gốc gác là đồ tể. Thứ hai: nghề đồ tể hiện nay là nghề kiếm nhiều tiền nhất; chỉ vài tiếng đồng hồ buổi sáng sớm người ta có thể kiếm tiền bằng một tháng lương. Thứ ba: chú Hợi muốn tìm vây cánh. Bố nên nhớ chú Hợi là người giỏi nghề chính trị.

- Cả đến lò mổ cũng là một sân khấu chính trị?

- Dĩ nhiên, bố ạ.

Ngày… tháng…

Từ ngày có tóp mỡ, con lợn Bò lớn nhanh như thổi. Hàng tuần, tôi đo lồng ngực và chiều dài của lợn. Tuần này, số đo lồng ngực lợn tăng bốn cm, như vậy theo bảng thống kê tổng kết, tương ứng với lồng ngực, lợn Bò đã tăng thêm năm cân.

Con lợn Bò đã gần ba mươi cân, vóc dáng nó đã to gần gấp đôi chú lợn ỉn.

Với cái vóc dáng đồ sộ ấy, lúc này lợn Bò đã được lũ ỉn cho phép nằm ngang hàng. Tuy nhiên, Bò vẫn phải chịu một chỗ nằm lép vế, nghĩa là bao giờ Bò cũng phải nằm ngoài cùng, chịu đựng gió rét và làm tấm bình phong, tạo ấm cho lũ ỉn. Có những lúc Bò ta tỏ ra tinh ma, khi ăn xong, vội vã tranh vào nằm sát tường tức là chỗ ấm nhất; khi ấy, lập tức lũ ỉn không chịu khoan nhượng, chúng leo lên lưng, cắn tai, húc vào bụng con lợn Bò, cho đến lúc con lợn quỉ quái ấy không chịu nổi, bắt buộc phải đứng dậy để chấp nhận vị trí nằm lép vế của mình, thì cuộc tranh chấp mới kết thúc.

Ngày… tháng…

Đài phát thanh Hà Nội báo tin có đợt gió mùa Đông bắc tràn về, và nhiệt độ sẽ giảm xuống tới mười một độ. Để chống rét cho lũ lợn, tôi vứt hai cái tải vào trong chuồng.

Rét về, lũ ỉn ăn kém hẳn đi. Riêng Bò vét đĩa vẫn ăn hung như trước. Nó ăn thêm phần thức ăn bỏ dở của lũ ỉn, nên hôm nay bụng nó căng phồng. Ăn xong, nó lùi lũi vao chỗ ấm nhất, ủi cái tải sù ra phía trước, rồi nằm xuống, ung dung chúi mõm vào đống tải, để bảo vệ, để gây ấm cho cái mũi vốn là cơ quan nhạy cảm và quí giá nhất của loài lợn. Lũ lợn ỉn vừa đói, vừa rét nên càng tức tối. Cả đàn cả lũ, chúng hùng hổ xông ngay lại, cưỡi ngay lên lưng con Bò. Con lợn Bò liền đứng ngay dậy, lắc mình hất tụi lợn ỉn xuống, nó chúi đầu đứng gầm gừ, đối mặt nhìn lũ lợn ỉn, khiến bọn này phải chừng lại ngay không dám tấn công. Lợn Bò vốn tính hiền, nên cuộc chiến tranh đã không xảy ra. Tuy vậy, hôm nay nó bỗng sáng kiến nghĩ ra một cách ngủ khác trước; nó chiếm phắt ngay một cái tải dành riêng cho mình, nó dùng cái mõm ủi tải ra một góc khác; nó dùng chân, dùng mõm, khéo léo trải cái tải thừa ra phía ngoài; vậy là đằng trước tải, một bên vách, một bên tải, nó che ấm được cả mõm và hai bên sườn. Nó đắc chí, nằm ngáy pho pho, và mặc xác lũ lợn ỉn tranh giành kéo co nhau chiếc tải thứ hai.

Cứ bảo con lợn Bò ngu ngốc. Hôm nay, nó đã tỏ ra không ngốc một tí nào. Nó đã biết tẩy chay bọn ỉn.

Ngày… tháng…

Tôi thông báo thái độ mới của con lợn Bò cho Lân biết. Lập tức, Lân khoác áo bông sang nhà tôi ngay. Nhà chuyên gia chăn lợn ấy đã đứng bên chuồng lợn, vứt nắm rau muống xuống trước mặt lợn Bò, rồi vuốt ve nó khi nó đang ngấu nghiến nhai rau.

- Khá lắm! Có thế chứ! Chẳng lẽ mày lại hèn. Ở đâu có áp bức là khắc có đấu tranh. Hãy tiến lên Bò ạ.

Tôi ôm bụng cười:

- Quỉ quái chưa! Ông lại tin có cả đấu tranh giai cấp trong chuồng lợn?

- Chứ sao! Đây là một chàng khổng lồ đang mơ ngủ. Ngủ chán, nó sẽ dậy. Này! Hãy nghe lời tôi khuyên. Cần phải hết sức chú ý, kẻo rồi lài xảy ra rắc rối trong chuồng lợn.

Ngày… tháng…

Việc quan sát sự phát triển của chú lợn Bò phải tạm dừng bởi lẽ gạo tăng quá nhanh Mấy hôm trước giá gạo tám mươi, mấy hôm sau gạo đã tăng mỗi ngày vài giá. Tám mươi, lên tám lăm, rồi chín mươi, hôm nay gạo tròn một trăm. Cơn sốt gạo Hà Nội cứ ít lâu lại xảy ra như một bệnh dịch đe doạ người nghèo. Lo âu. Ngắc ngoải. Người ta đồn đại chính phủ sắp thả nổi gạo. Phần lớn dân Hà Nội sẽ phải ăn gạo giá ngoài. Trong khi đó, thằng Minh, đứa con thứ hai của tôi cũng đang bén máng như chú lợn Bò. Bữa cơm, nó có thể ngồi ăn lì không biết no.

Vợ tôi cáu kỉnh, hễ về nhà là gắt đủ điều:

- Thằng Linh! Còn nằm ườn ra mà đọc sách hả?…

- Thằng Minh đâu rồi? Sáng hôm nay mày chỉ đi chơi, sao không xếp hàng rau? Chỉ được cái ăn là giỏi.

- Lợn Bò với lợn Bê! Bán mẹ nó đi cho rảnh mắt.

- Hạn chế lại! Nấu cháo mà húp! Tao không còn hơi sức đâu mà chạy gạo cho chúng mày ăn.

- Cả nhà nay có ai thương tôi đâu. Người ta còn đọc sach, còn đi chơi, còn suy nghĩ, còn nghiên cứu cơ… Còn tôi thì lăn lưng vào mà vẫn chẳng kiếm ra đủ cho các con ông ăn. Đi làm xí nghiệp về, lại đi đưa bánh đa, hai xu một chiếc. Đạp xe thắt ruột lại… Hào quà cũng chẳng dám ăn… Thế mà…Thế mà có ai biết sót xa cho tôi đâu.

Tôi bực bội và tê tái đi vì những lời than oán kể khổ ấy. Tôi cố gắng ngọt ngào:

- Thôi! Tôi xin bà. Đừng có làm rối lên như thế. Kêu ca nào có ích gì. Có đỡ khổ đi chút nào đâu. Cần phải bình tĩnh mới được.

- Tôi không bình tĩnh.

Cáu quá, tôi vặc lại vợ:

- Thôi! Câm mồm đi!

- Anh nói như thế mà nghe được? Có học đấy! Đọc sách đấy! Đạo đức đấy! Lúc nào cũng lý thuyết! Lý thuyết suông!…Đạo đức giả!

Tôi im lặng, không nói nữa. Nhưng tôi càng im lặng vợ tôi càng nói già, nói dai:

- Tôi lấy anh thật phí cả đời. Tôi là người công nhân. Đáng lẽ ra tôi lấy một người công nhân, thì những lúc này người ta còn biết thương tôi. Ôi chao! Lúc nào anh cũng tử tế, nhân nghĩa. Anh là kẻ đạo đức giả. Anh khinh tôi không có học, nên anh mới dám ăn nói như thế

- Ai khinh cô?

- Anh chửi tôi.

- Ai chửi cô?

- Anh bảo tôi: câm mồm, tức là anh chửi tôi.

Tôi phát điên lên:

- Đồ vu vạ! Thôi! Bà chiến sĩ thi đua của tôi ơi! Bà lại học được cái trò nam nữ bình đẳng nửa mùa để đem về áp dụng ở gia đình rồi… vứt mẹ cái trò dớ dẩn ấy đi.

- Hừ! Giỏi quá nhỉ! Không khéo cái mồm ấy, có lúc người ta gô cổ lại. Bình đẳng nửa mùa! Rồi có lúc lại rũ tù.

- Ai gô cổ? Ai rũ tù? Đứa nào bắt tao? Cô định doạ nạt hả? Giở thói cải cách ruộng đất ra hả? Vợ mà như thế hả? Doạ tao à? Đểu! Đồ đểu.

Vợ tôi, khi thấy tôi la hét thì bặt lặng. Cô ta biết đã lỡ lời. Cô ta đã ngoáy một lưỡi dao nhọn vào vết thương của tâm hồn tôi. Sự vu cáo… Những ngày thẩm vấn… Sự đe doạ tù đày triền miên… sự theo dõi, bóng gió doạ nạt… sự thỉnh thoảng hỏi thăm nhắc nhở… tội chống Đảng… cắt việc… rồi treo bút cấm viết… những ngày lao động cải tạo nhục nhằn những nghề nghiệp lầm than mà tôi dấn thân chỉ cốt kiếm được đồng tiền nhỏ nhoi cũng được đó là tất cả những điều mà tôi đã trải qua. Và tôi vẫn tự hào là trong cơn bão, vẫn giữ lại được một gia đình toàn vẹn, với người vợ chịu đựng cùng tôi, với đời sống lương thiện mà chưa bao giờ tôi phải hổ thẹn, với đàn con khổ sở đấy nhưng ngoan ngoãn… Nhưng hôm nay, niềm tự hào cuối cùng của tôi cũng đang bị lung lay. Gia đình tôi bắt đầu nghiêng ngửa, hay nó đã rạn nứt từ lâu rồi mà bộ óc u mê của tôi chẳng nhận thấy. Hừ!… Có thể lắm chứ… Những người đàn bà yếu đuối… Một người bạn gái đã phản lại tôi… Vợ một anh bạn đi tù đã tố cáo chồng, ly dị vắng mặt chồng, thậm chí bắt con không được nhận bố… Nhưng lẽ nào…Vợ tôi cũng thế hay sao?…

Những dòng suy nghĩ u uất lướt qua bộ óc. Tôi rên lên:

- Đồ đểu! Đồ đểu! Đồ khốn nạn!

Tôi cầm chiếc điếu cày đập mạnh xuống nền nhà. Cái điếu vỡ, đổ ùa ra một dòng nước đen sì, lênh láng, hôi hám. Bên kia vách, đàn lợn rống lên đòi ăn. Sặc sụa lợn!

Ôi! Ô nhiễm! Ô nhiễm! Tôi ném nốt bình trà xuống đất và cổ họng tôi nghẹn lại. Tức thở! Tắc thở!

Vợ tôi lặng lẽ đi khỏi nhà lúc nào chẳng hay. Còn tôi thì ngồi thừ cay đắng trên chiếc ghế bành cà khổ, nơi mà tôi vẫn hằng ngồi hàng giờ để suy ngẫm, tưởng tượng viển vông. Chiếc ghế bành chỉ biết run rẩy chứng kiến những giấc mơ bất tận, hôm nay đã tận mắt chứng kiến một sự thực cay đắng…

Lần đầu tiên, tôi thấy lộ nguyên hình sự nanh ác của vợ tôi. Cũng lần đầu tiên sự nanh ác của tôi xuất hiện phũ phàng chẳng kém. Tôi thầm hiểu lúc đó tôi muốn tát vào mặt cô ta…

Cũng lần đầu tiên, tôi cảm nhận được sự giả dối của đời sống vợ chồng. Sự biết điều, sự nhẫn nhục chẳng qua là trò đóng kịch. Tôi muốn chạy trốn, không dám nhìn vào sự thật đau đớn. Chúng tôi làm gì còn tình yêu. Cuộc sống vợ chồng tôi chỉ còn là một sự cộng sinh Những thói quen, chỉ còn tồn tại do sợ hãi một cuộc chia ly, sợ hãi rơi vào một cuộc phiêu lưu mới không có gì đoan chắc là ổn định. Mà thực vậy. Tại sao cô ta cứ phải gánh chịu mãi cái số phận lênh đênh hình ngục nan đào của tôi. Tôi là một quả đắng cay đối với người đàn bà nào dính líu với tôi…

Tôi bỗng dưng nghe thấy một tiếng động. Tôi quay đầu nhìn và thấy thằng con trai lớn vẫn ngồi thản nhiên ở một góc giường. Cặp mắt của nó lặng lẽ không biểu hiện, nhưng tôi cũng thoáng đọc thấy trong ánh mắt ấy một nụ cười mỉm. Anh mắt ấy như muốn bảo: “Thưa bố! Màn kịch đã hạ rồi!” Đột nhiên, cái nhìn của đứa con làm những nộ khí trong tôi bỗng xẹp xuống. Con tôi không nhìn tôi nữa, nó lên gác xep đọc sách. Cơn tức giận tan nhanh, để lại một chỗ trống cho nỗi buồn đen thăm thẳm choán ngập linh hồn tôi. Tôi vẫn ngồi thừ trên chiếc ghế bành cà khổ, mắt nhắm không buồn nhúc nhích, và tôi đã vào một giấc mơ ngủ lung linh mà không ai đánh thức nổi, từ đây.

Ngày… tháng…

Chiến tranh lạnh!

U ám gia đình!

Tôi không nói. Vợ tôi không nói. Mẹ tôi không nói. Con tôi không nói. Vợ tôi không nói chuyện vì giận tôi. Mẹ tôi không nói vì buồn phiền. Còn con tôi không nói vì chán nản. Những đứa trẻ vốn là diện mạo tinh thần của gia đình. Nhìn lũ trẻ, ta có thể xem tướng một gia đình. Trẻ con tươi tắn, cởi mở, đôn hậu, là gia đình đang vượng. Trẻ con ủ rũ là gia đình đang biến. Trẻ con khùng loạn là gia đình đang suy.

Cậu Linh dạo này lại đọc tới Nam Hoa Kinh của Trang Tử. Con ơi! Mày định ru hồn vào giấc mơ bướm của Trang Tử hay sao? Thì cứ mơ đi! Giấc mơ đôi lúc cũng cứu người. Ta chỉ sợ cái thực đời đến một ngày nào đó sẽ giết hết giấc mơ của ngươi. Mất Phật, mất Chúa, con người đã mất một giấc mơ lớn. Mát giấc mơ lớn, con người lồng lộn săn đuổi những giấc mơ nhỏ nhoi thường nhật, nhưng rồi cũng chẳng đạt được. Cuối cùng người ta phỉ báng sự mơ. Con người trở nên què quặt, bất túc.

Con ơi cha cũng đang trở nên bất túc đây.

Ngày… tháng…

Ta bỏ bễ “cơn lợn”. Ta mặc xác con lợn Bò. Ta cưỡi xe đạp dong chơi phố phường Hà Nội. Ta trốn chạy cái nhà ta ở. Ta sà vào quán nước, quán rượu. Ta lê la các nhà bạn bè để nói những chuyện tầm phơ. Ri-gân đắc cử ư? Một người phẫn chí tự thiêu ư? Cải cách giáo dục ư? Chủ nghĩa Mao man rợ ư? Cải cách nội các ư? Chuyện một bà lớn áp phe kim cương ư?… Để rồi, đêm ta về nhà, bật chiếc đèn ngủ, mà nghe lợn kêu, mà mung lung chán phè… Buổi chiều, Tám đưa ta một mảnh giấy. A! Một mảnh Bách Khoa Lợn. Nào, thì đọc.

NGƯỜI LỢN và LỢN NGƯỜI

Văn chương thế giới và đời sống thực đều có những chú ”Lợn Người“. Trư Bát Giới là lợn người. Phải kể thêm con lợn Chiến Sĩ của Lân cũng là một thứ lợn người. Có lẽ nên để bạn đọc tự rút ra định nghĩa về khái niệm “Lợn Người“.

Còn khái niệm “Người Lợn” cũng thấy sách sử ghi lại. Tư Mã Thiên có nói Lã Hậu chặt chân, chặt tay người phi yêu dấu của Hán Cao Tổ, vứt vào nhà xí và gọi đó là con lợn. Sợ rằng xác dịnh khái niệm người lợn như vậy là quá ư thô thiển.

Tôi đọc sách thấy có nhiều đoạn nhắc đến thứ Người Lợn, vậy xin ghi lại tham khảo.

Thời nhà Lê, thời kỳ cực thịnh của phong kiến Việt Nam có khá nhiều người lợn. Cái hồi Trần Nguyên Hãn và Nguyễn Trãi mới gặp Lê Lợi ở Lỗi Giang, Hãn bảo Trãi: “Tướng Lê Lợi là tuớng lợn, người ấy chỉ có thể vui với ta lúc đói nghèo gối đất nằm sương, chứ không thể chung hưởng với ta khi phú quí.” Quả nhiên về sau, Lê Lợi giết Trần Nguyên Hãn đầu tiên khi kháng chiến thành công. Té ra Lê Lợi là một thứ người lợn. Cháu chắt ông ta là Tương Dực Đế xây Cửu trùng đài cũng được dân Thăng Long gọi là Vua Lợn. Quan lợn thời Lê cũng có. Thời Lê Nhân Tông, trong Đại Việt Sử Kí Toàn Thư có ghi: “Đến khi thi đình, vua thân ra đầu đề văn sách, hỏi về lễ nhạc hành chính, cho Nguyễn Nghiêu Tư đỗ Trạng nguyên… Nghiêu Tư đã từng thông dâm với mẹ vợ… Có người hát ở đường cái rằng: “Trạng Nguyên Trư, Nguyễn Nghiêu Tư” nghĩa là “Trạng nguyên lợn, Nguyễn Nghiêu Tư”

Té ra ngày xưa có cả ông nghè lợn.

Đêm đen.

Chẳng thấy gì. Chỉ nghe tiếng con lợn Bò ngáy ngoài chuồng lợn… và tiếng vợ ta thở dài trong giấc mơ.

Ta ngủ sao nổi. Cứ nghĩ vẩn vơ mãi. Có ai thì thầm trong óc: “Hãy suy nghĩ cho kỹ. Có phải anh cùng một duộc với Nguyễn nghiêu Tư hay không?”

Thằng Linh mê ngủ bỗng thét lớn: “Đồ tể! Đồ tể!” Và con lợn Bò giật mình cũng rống lên hồng hộc.

Ta bịt tai lại. Phải rồi! Đúng rồi! Ô nhiễm! Đúng nhà ta đang bị ô nhiễm như hôm nao Tám đã tiên tri.

Ngày… tháng…

Nói theo kiểu cô Sagan nước Pháp: “Chào cái buồn”. Còn nói theo kiểu của ta: ”Thôi, cút đi, cái buồn” . Ư, ta cần gì cái buồn, ta cần cái vui cơ. Thì vui. Thì say sưa. Một người bạn rủ ta đi uống rượu, nào ta đi uống cho say.

Bạn ta tổ chức một tiệc rượu. Có hoa, có ảnh, có đàn, có hát, có bánh ga tô… có lòng lợn, có tiết canh, có xôi, có thịt… có hoạ sĩ, có giáo sư, có nhà thơ, có nhạc sĩ và nhiều người cầm bút. Đấy, cái lương tâm thời đại. Đấy, cái gương mặt Hà Nội… Người bạn già vẽ phố đổ, mặt siêu… Tiếng lảnh lót ngâm thơ về một dòng sông mộng mơ cổ kính Người ta luận đàm về những phạm trù triết học, sử học …

Xin lỗi các bạn. Tôi không nhớ gì cả, tôi không cần gì cả, lúc này, chỉ mỗi một điều tôi thèm khát: cái vui. Và cả theo định nghĩa của tôi, người ta chỉ vui khi người ta thật, nghĩa là ta lột vỏ, là ta nguyên hình, là ta bình đẳng, là ta… tuyệt đối. Hãy tung hê hết mọi ước lệ, mọi quá khứ, mọi qui định, mọi trói buộc… để trở về với cái thần ngây thơ và lung linh. Những phút hiếm.

Giấc mơ xác định nhân dạng tôi:”Anh là Người Lợn”. Hỡi ôi! Tôi đích thực là giống thô bỉ. Chối sao được. Có người định nghĩa tôi: thằng hề. Có bạn bảo tôi: thằng khùng, thằng say. Một nhà nhân đạo chủ nghĩa nhận xét tôi: thằng gàn… Tôi biết chọn tính từ nào để mặt cho hợp cái dáng lom thom gày guộc, để đắp cho tròn cái típ người – phổi lép kẹp. Tôi biết chọn thứ ngôn từ phấn son nào để xoa kín những nếp nhăn nhó trên khuôn mặt quắt queo xám ngoét hằn in những dấu vết của số phận nguyền rủa. Không! Tôi không thèm phấn son. Tôi thèm khát một loã thể, dù một loã thể nhăn nheo. Trong những giấc mơ xưa, tôi bị chôn sống trong một đống ngôn từ óng ánh sắc cầu vồng. May mà tôi thức dậy kịp. Bây giờ thì tôi dị ứng sắc cầu vồng.

Cám ơn các bạn đã tặng tôi thứ tính từ xam xám. Tức là các người đã nhân đạo với tôi, đã thể tất cho tôi. Cám ơn! Cám ơn!

Nhưng có lẽ các bạn không hiểu, trong khoảnh khắc tiệc ấy, tôi đã nhìn thấu sự trần truồng; không gian trần truồng và người trần truồng, tôi uống rượu. Tôi đã xem tướng và ngây thơ muốn giao cảm với các bạn:

- Sao mọi khi anh thành thật, mà lúc này anh dối trá?

- Cớ sao anh run rẩy và cổ kính?

- Đừng có lên mẽ ông tướng, dù là phò mã. Hãy ngồi cho bằng tròn, ngang phẳng, và dốc chén cho cạn. Chén rượu sẽ làm con người thực sự bình đẳng, anh em.

Tôi bảo:

- Ta là thế giới.

Bạn ta chỉnh lại:

- Ta là dân tộc.

Tôi khăng khăng:

- Ta là bất đồng.

Tôi muốn nói đến “vết cắt”. Một lưỡi dao sắc ngọt xả đôi ta ra… Vết cắt tức là giã từ, là siêu vượt, là lột xác, là trở về cái đích thực ta, cội nguồn ta. Ôi! Giã từ thật khó khăn. Ai thét lên như người đau đẻ? Ai giơ dao lên đâm chém tương tàn trong trái tim ta? Tôi say như muốn khóc lên trong cõi bơ vơ. “Ta là dân tộc”. “Không! Ta là thế giới”.

Giã từ sao mà đứt ruột. Nhớ chứ! Yêu chứ! Tôi vẫn yêu con sông Đuống mộng mơ của anh, bởi vì chính từ con sông nên thơ ấy, ta mới hành trình đến được “vết cắt”. Tôi cũng yêu cả những dãy phố nghiêng nghiêng cổ kính của anh, bởi vì nó là khởi đầu “vết cắt”. Tôi yêu cả cái dân tộc của anh, bởi vì chính chúng ta đã chập chững tập đi, tập nhảy từ cái phạm trù thần thánh ấy. Nhưng ta không dừng lại ở những bước đi, điệu nhảy; chúng ta còn muốn vươn lên khoảng không bao la, muốn vươn khỏi cái hạn hẹp để hành trình đến cái đích thực nhân đạo.

- Tôi đếch cần mọi thứ linh thiêng.

- Thằng say nói bậy.

- Bậy nhưng mà vui.

Ta vui trong nỗi lo âu run rẩy, bởi vì ta là nô lệ, ta là hèn hạ.

- Tôi đéo vào sự nô lệ.

- Tôi đếch cần cái buồn.

- Tôi đéo vào sự vô sỉ.

Bạn ơi! Tôi đang kể cho bạn nghe về con lợn Chiến Sĩ đó. Thật ngoắt ngoéo. Thật mập mờ.Nhưng mà vui. Bởi vì trong cái mập mờ, ta đã nhìn thấy, qua tấm màn tuyn, một loã thể, một trần truồng: đó là cái vui.

Tôi cứ mê man đi trong cái nửa thật, nửa mơ như vậy. Cái bảng lảng theo chiếc xe đạp chếnh choáng của tôi diễu binh trên phố vắng đêm Hà Nội. Đến tận mười hai giờ khuya, tôi mới lần được về đến trước cửa nhà tôi.

Thằng Linh vẫn nằm đọc Trang Tử, nó thò đầu ra khỏi màn và hỏi:

- Bố ăn cơm chưa?

- Tao mới chỉ uống rượu.

- Bố say rồi.

- Có để phần cái gì không? Có lẽ nhắm ít ngũ cốc vào bụng là hết say.

- Hôm nay không có gạo bố ạ.

- Thì mì sợi.

- Mì hết.

- Thì sắn.

- Mẹ không có tiền mua.

- Thì tớ nhịn vậy.

Thằng con tôi chợt cười:

- Có món đặc biệt đáy bố ạ.

- Thứ gì?

- Hôm nay, con thử nấu cháo bằng cám ngô.

- A! Ăn tranh của lợn.

- Cám ngô rắc ít tóp mỡ. Ngon tuyệt! Thơm phức! Béo ngậy!

Thế là hành trình của tôi đã đi từ một bữa tiệc đến một bữa cháo cám. Bát cháo cám chợt làm tỉnh cơn say. Cuộc hành trình bắt đầu từ một cơn vui điên cuồng đi đến một lặng lẽ tư lự. Chắc chắn tên gọi của nó là: Cái buồn. Tôi nhắc lại câu nói của Sagan: “Chào cái buồn!” và nước mắt tôi ứa ra. Tôi uống rượu trong khi các con tôi ăn cháo cám, tranh phần lợn. Có thể gọi đó là tội lỗi. Đừng có bẻm mép lý thuyết thêm nữa; đừng tìm cách biện hộ. che giấu. Trong lúc này, không lo đủ miếng ăn cho lũ con, đó là tội lỗi. Cớ sao anh phè phỡn. Anh dửng dưng chăng? Anh còn lo hão những chuyện to tát đâu đâu chăng? Anh còn tự phỉnh nịnh ru ngủ bằng cái nghèo đẹp đẽ, bằng những ngôn từ vĩ đại sáo rỗng đến buồn nôn chăng? Anh là kẻ vô sỉ, thứ Người – Lợn. Tâm hồn tôi rưng rức khóc; và những giọt nước mắt nóng hổi tràn rụa trong lòng khiến toàn thân tôi rung lên.

Ôi chao! Sao ta bất lực.

Ngày… tháng…

Vẫn chiến tranh lạnh. Suốt ngày tôi không nói với vợ con một câu. Suốt ngày tôi ngồi im lặng trong chiếc ghế bành cà khổ ấy, và buồn rầu lạc vào cái vương quốc tưởng tượng mà chỉ mình tôi biết, ở đó cả lũ quỉ và cả những ông thánh đều là những vị khách thân quen.

Không hiểu sao hôm nay tôi lại lạc về căn phòng hỏi cung trần trụi mà tôi đã nhiều lần phải có mặt.

Tôi nhớ đó là cuộc hỏi cung lần thứ hai mươi thì phải. Người cán bộ an ninh đeo kính trắng hôm ấy có vẻ nóng nẩy sốt ruột, đó là một tâm lý mà người hỏi cung thường không bao giờ để lộ ra trên nét mặt hay sắc điệu của giọng nói.

Anh ta nhìn tôi chằm chằm, không chớp mắt. Tôi biết mình đang nằm trong một giai đoạn đấu tranh kịch liệt nhất, và anh ta quyết định đánh gục tôi hôm nay. Anh mắt anh ta nóng bỏng áp đảo, còn ánh mắt tôi cố giữ vẻ điềm tĩnh phớt đời. Anh mắt thôi miên ấy bỗng lóng lánh vẻ tinh quái:

- Này, có phải anh tự cho rằng anh chỉ là con người ưa trầm tư suy ngẫm chứ không phải con người muốn hành động?

Tôi đột nhiên bị lúng túng, vì không hiểu ẩn ý của câu hỏi là gì? Phải chăng anh ta châm biếm chế nhạo tôi? Phải chăng trong câu hỏi có gài một cái bẫy? Tôi nghĩ ngợi rồi trả lời:

- Nói chung ai chả hành động …

- Không nói chung. Riêng anh thì sao?

- Tôi ư? Cũng thế thôi. Nhưng không phải hành động chính trị.

- Này, thế cái “Que faire” thì sao?

Tôi chợt nhìn anh ta trừng trừng

- Anh nói gì?

- Que faire.

- A…a …

Tôi choáng váng không tin ở tai mình nữa. Và hai tiếng “Que faire” như một điệp khúc bỗng vang vang trong trí não tôi. Thì ra họ biết cả chuyện ấy nữa ư? Một cảm giác vừa tức giận, vừa sợ hãi, vừa buồn bã bỗng xâm chiếm toàn thể con người tôi, chắc nó đã làm cho gương mặt tôi sạm lại. Anh ta tiến công tôi liên tục không cho tôi kịp hồi tỉnh:

- Người ta đã khai hết cả rồi. Ngay cả X người cầm đầu cũng khai lời nói của anh ra. Vậy mà anh, anh còn cố quanh co che giấu cho họ làm gì? Sao anh dại vậy. Trong nhóm chống Đảng anh chỉ là một quân tốt đen. Người ta thí tốt, vậy thì anh cần gì phải bảo vệ cho họ …

Tôi lặng lẽ ngồi trước tờ giấy trắng. Và trong óc tôi thì dấy lên biết bao ý nghĩ …

Hôm đó, gia đình tôi tiếp khách. Khách gồm có anh X, một cô bạn gái mà một thời tôi đã yêu, một anh bạn trai viết văn vốn là bạn nối khố với tôi. Về phía gia đình có tôi và vợ tôi.

- Anh nhớ lại đi, hôm ấy X mang đến chai rượu Liên Xô, vợ anh rang lạc, còn cô bạn gái pha cà phê … có đúng không nào? Tiếng nói của anh cán bộ an ninh gợi ý như muốn đưa cho tôi một cái cột mốc để níu lại những bóng mờ dĩ vãng.

Tôi cần gì một điểm bấu víu. Buổi hôm ấy tôi nhớ rành rành.

Que faire? (Làm gì?)

Que faire? (Làm gì?)

Đó là tên cuốn sách của một nhà văn nổi tiếng Nga thế kỷ 19. Tôi không phải người sính dùng tiếng nước ngoài nhưng bởi vì tôi chú ý đến câu nói đó, mà hai tiếng Que faire lại gợi cho tôi một âm hưởng đặc biệt nên tôi cứ hay dùng hai chữ đó để thay thế cho hai chữ làm gì. Thú thực, tôi đã cố gắng đọc cuốn tiểu thuyết đó mấy lần, nhưng chịu không đọc nổi, đọc vào cứ bật ra, không nhớ nổi nội dung câu chuyện. Có lẽ cuốn sách không hợp khẩu vị của tôi. Nhưng điều kỳ lạ, cái tên cuốn sách lại hấp dẫn tôi ghê gớm. “Làm gì? Làm gì?“. Tôi cứ hay thầm nhắc trong óc câu hỏi ma quái đó. Lắm lúc trong những đêm trắng nằm bâng quơ buồn rã rượi tôi lại cứ tự hỏi tôi “Làm gì đây? Làm gì?” Ô hay! Đời đang vui, đời đang lên, sao ta lại hỏi “Làm gì?“. Số kiếp tôi là số kiếp những kẻ mua dây buộc vào mình nên cứ hay lẩn thẩn như vậy. Khi con người ta đứng trước dông tố, đứng trước một bước ngoặt, đứng trước cái sống và cái chết, phải đối mặt giữa cái thiện và cái ác, thì câu hỏi “làm gì” là câu hỏi của lương tri. Lúc đó con người phải lựa chọn, phải tra vấn lương tâm mình, phải ra quyết định cho thái độ của mình. Lúc đó, biết mà dửng dưng, mà trốn chạy câu hỏi đó lại là một tội ác.

Tôi là thằng điên, hay thằng gàn, hay một kẻ mộng du… vì thế chính cái hôm ấy, trong bữa ăn vui, tôi dã hỏi mọi người:

- Que faire?

- Sao?

- Làm gì?

Vợ tôi lẽ dĩ nhiên im lặng vì không phải lĩnh vực của cô ấy. Người bạn nối khố của tôi thì lặng lẽ buồn rầu. Anh X thì nắm tay tôi thông cảm:

- Hoàng nghĩ vậy là phải.

Còn người đàn bà có một thời đã yêu tôi, thì lúc tôi tiễn cô ra về, đã nói:

- Hoàng ơi! Hoàng vẫn kỳ cục như xưa.

- Nghĩa là cô đã thất vọng vì tôi chăng.

- Sao lại thất vọng. Có lẽ càng thích thêm thì có.

- Đừng có đùa.

- Mình nói thật. Thấy tiếc Hoàng rồi đó.

- Lúc nào cũng đùa dai.

Tôi quay đi để tránh những kỷ niệm cũ bỗng hiện về. Và người bạn gái thở dài bắt tay tôi từ biệt.

… … …

Tiếng người cán bộ an ninh khêu gợi cắt đứt dòng suy nghĩ của tôi:

- Đấy, hành động bắt đầu từ buổi họp mặt hôm ấy. “Làm gì” đó là những câu hỏi để dẫn tới những kế hoạch, chương trình, dẫn tới những giải pháp tổ chức. Hôm ấy X có nói: “Không tổ chức! Ở Xã hội chủ nghĩa tổ chức là chết”. Hắn ta làm động tác giả đấy. X là một con cáo già, đã tù Tây ở Sơn La, đã tham gia hoạt động thời bí mật, hắn hiểu rõ hoạt động chống đảng không thể bàn ở một cuộc họp như vậy, mà phải cực kỳ bí mật, khéo léo…

Thực ra trước khi anh hỏi “làm gì”, hắn đã có sẵn một tổ chức chống Đảng rồi.

Tôi không nghe thấy tiếng hắn nữa, dòng suy nghĩ của tôi làm chìm tiếng nói của người cán bộ an ninh đi. Lúc này trong tôi là day dứt.

Chúng tôi năm người hôm ấy. Vậy thì ai là người đã khai chuyện đó ra với an ninh? Anh X ư? Vô lý, đó là người mà nhân cách của anh tôi vô cùng kính trọng. Anh bạn nối khố của tôi ư? Hay là người bạn gái thân thương đã một thời dan díu cùng tôi? Vô lý! Vô lý! Hay là vợ tôi? Máu ghen của ngưới đàn bà… Sự trả thù của người đàn bà… Sự yếu đuối của người đàn bà… Kể cả có thời khi tôi đã sa cơ thất thế quá chừng, khi tôi đã là kẻ khố rách áo ôm, khi tôi luôn bị rình rập đe doạ… thì… thì tất cả đều có thể lắm chứ… Chính vợ tôi đã kể lại cho tôi nghe rằng một bà phó giám đốc đã thương vợ tôi hồng nhan bạc mệnh, lấy phải thằng văn sĩ gàn mà phản động, nên đã giới thiệu cho cô ta gặp gỡ một cậu thiếu tá công an… Cũng chẳng hiểu cái duyên nợ nào đã trói buộc cô ta ở lại với tôi.

… … …

Trong chiếc ghế bành tả tơi rách nát ấy, tôi liên tục rít thuốc lào để lạc về những hồi ức tối đen, chúng từ những đáy thẳm lãng quên lồm cồm thức dậy, làm trĩu nặng lương tâm, tạo ra những màn khói ngờ vực hận thù kéo mờ ý thức.

“Làm gì?”

“Làm gì?”

Câu hỏi khi xưa lại trở về tra vấn tôi. Tôi chợt thở dài. Cũng may ở đời còn có câu hỏi đó.

Ngày… tháng…

Tôi vẫn đêm ngày ngồi trên chiếc ghế bành cà khổ để suy ngẫm, để kết tội mình, để kết tội người, để cho độc tố của sự căm giận thấm dần vào từng thớ thịt từng tế bào. Phải chăng thứ nọc độc quái quỉ ấy đã tạo ra một khoái cảm nào chăng? Có thể là như vậy, bởi vì có như thế thì tôi mới chịu đắm mình lâu như thế để tắm đẫm cái thứ nước nhờ nhợ nhớp nhúa ấy, cái thứ nước có lẽ người ta vừa thấy thích vừa thấy ghê ghê. Cơn xung nộ âm ỉ ấy làm những giác quan bên ngoài của tôi hầu như bị tê liệt: lưỡi tôi đắng chát ăn chẳng biết ngon; tai tôi dửng dưng với mọi âm thanh, mọi thứ tiếng lợn kêu, người nói lúc này chỉ là những âm sắc thấp cao không ý nghĩa; mắt tôi chỉ thèm những bóng mờ; còn mũi tôi thì điếc đặc. Tôi khoá kín tôi trong cái hình hài lom thom gày guộc để nó tự giãy rụa tuyệt vọng, tự tìm ra lối thoát bằng những hồi ức, những liên tưởng, những độc thoại… Ừ! Tại sao nhỉ? Tại sao tôi lại tập trung vào cái người đàn bà đã sống hơn hai chục năm cùng tôi? Tại sao tôi lại trút nghi ngờ, và căm giận lên đầu cô ta. Vì cô ta đã làm vỡ nốt cái ảo vọng cuối cùng của đời tôi chăng? Vì cô ta đã phá vỡ nốt cái lô cốt cuối cùng, cái tế bào gia đình mà tôi đã cố công xây dựng làm ốc đảo của đời mình chăng? Có thực là cô ta đã phản bội tôi không? Cô ta đã nói nhịu, nói lỡ mồm: “Không khéo rũ tù!”. Rồi cô ta lại bĩu môi, cái bĩu môi đầy hàm nghĩa. Có người bảo rằng cái nói nhịu mới là những ý nghĩa thầm kín trung thực nhất của con người mà bao giờ con người cũng cố giấu kín đi. Vậy chắc chắn, trong thẳm sâu, cô ta muốn tôi đi tù. Chắc chắn, trong thẳm sâu, cô ta căm thù tôi. Thế đấy! Sự thực cay đắng đến thế đấy. Nhưng, cũng có thể lý giải tình cảm theo một cách khác. Có thể cô ta chỉ là một cái cớ để trút giận. Thực ra tôi oán giận một cái gì đó to lớn hơn, bao trùm hơn, và tôi đã chuyển di nỗi hờn giận ấy lên cô ta. Người đàn bà mềm yéu đáng thương của tôi chỉ là một cái thùng để tôi nôn mửa những nọc độc ghê tởm chán chường của cuộc đời mình vào đó chăng… Và nếu như vậy, đối với cô ta tôi đã bất công, và có tội…

Những ý nghĩ giằng xé ấy cuối cùng đã dẫn tôi đến một liều thuốc ngủ. Cũng may, liều thuốc ngủ tôi có trong tay chỉ đủ để tạo cho tôi một giấc ngủ dài suốt một đêm ngày.

Giấc ngủ triền miên ấy là một liều thuốc an thần; cũng may loài người cơ cực còn có giấc ngủ xoa dịu; nó đẩy lùi mọi đắng cay, chôn vùi mọi thất vọng vào tận thẳm cùng những miền âm ti sọ não, nó tắm rửa sạch sẽ những bụi bặm của kiếp sống, khoác cho tâm hồn ta một bộ áo tươi mát, đôn hậu, ban cho ta một tinh lực mới để khi tỉnh dậy ta mới có đủ can đảm để sống tiếp.

Tôi đã may mắn gặp được giấc ngủ đầy ơn phước và quên lãng ấy. Khi tôi tỉnh dậy thì lòng tôi chỉ còn một chút bùi ngùi. Giá như tôi lại tiếp tục nhận được những kích thích mới, có thể tôi sẽ điên rồ trở lại. Nhưng, vợ con tôi đều lặng lẽ và ân cần; có thể họ đã bàn luận với nhau trong khi tôi ngủ, có thể họ còn chút thương tôi, còn chút luyến tiếc với cái ốc đảo mà họ đã cùng tôi bao năm chắt chiu xây dựng; và tôi chắc rằng trong tôi cũng còn chút lương tri, tôi cúi đầu xuống tránh gặp ánh mắt ngơ ngác dò hỏi của vợ tôi Cầu xin cho màn sương lãng quên đôn hậu hãy phủ xuống chúng tôi, đẻ xoá kín những vết rạn nứt của kiếp sống bọt bèo; cầu xin cho sự bằng an đã bao năm ở cùng chúng tôi lại trở về trên ốc đảo, xứ thiên đường ảo tưởng của chúng tôi…

(Còn tiếp)

N.X.K.

 

No comments: