Sau 42 năm
Tôi ngồi
trước máy, đầu óc mông lung. 4 giờ sáng tạo vật còn say ngủ mà tôi cứ quay cuồng những ý nghĩ chợt đến chợt đi. Đêm thật dài những đêm
mất ngủ như hôm nay. Xoay qua trở lại với biết bao tư tưởng hiện về. Dậy quá
sớm không tốt cho sức khỏe. Ngủ tiếp lại thao thức không ngủ được. Vậy thì hãy
ngồi dậy viết những gì mình nghĩ. Thế nhưng, bây giờ ngồi trước máy, những tư
tưởng hổn độn lúc nãy không cánh mà bay. Nó chạy đi không để lại một dấu tích.
Đã bao nhiêu năm rồi tôi đã bị những đêm như
vậy. những đêm trắng đờ con mắt vì những âm thanh của tiếng rên, tiếng ngáy,
tiếng kêu thảng thốt của chồng. Tôi vật lộn, đấu tranh với chính mình về những
con người không tên không hiện hữu bao quanh cuộc sống vợ chồng tôi.
Chúng tôi cưới nhau năm tôi 23 tuổi. Cái tuổi đủ
chính chắn để làm vợ, làm mẹ vào thời điểm đó. Thế nhưng tôi vẫn còn con nít
trong vấn đề tình yêu. Bởi tôi chưa hề có một mối tình đầu để làm hành trang và
kinh nghiệm sống cho mình. Gia đình tôi cổ hũ và tôi là đứa con gái duy nhất nên
bị ràng buộc trong tầm suy nghĩ của mẹ "Trai thời trung hiếu làm đầu, gái
thời tiết hạnh làm câu trao mình" Cái ông Khổng tử ở tuốt bên Tàu vậy mà
uy lực ổng thật to rộng. Một người phụ nữ ít học, quê mùa như má tôi lại thuộc
nằm lòng mấy câu giáo điều đó. Thuộc để ép mình vào khuôn khổ cả một đời và
truyền lại cho con gái.
Chúng tôi cùng dạy tư cho một trường trung học
công giáo do cha đạo mở ra. Khi ấy anh đã là lính mang lon chuẩn úy. Có nghĩa
là anh cũng thuộc lính mới tò te. Một sĩ quan mới ra trường còn mang nhiều món
nợ áo cơm từ cha mẹ. Nơi anh được bổ nhiệm là một quận lỵ nằm giữa những vùng
xôi đậu. Ban ngày là của Quốc Gia, ban đêm Việt Cộng về thăm dân. Họ nhận tiếp
tế, tuyên truyền và rải truyền đơn.
Người dân như mang mặt nạ, không dám biểu lộ
tình cảm của mình với lính Quốc Gia. Xung quanh hàng xóm không biết ai là bạn,
ai là Việt Cộng nằm vùng. Cuộc sống bấp bênh trong những trận càn của lính và
đêm sục xạo, gỏ cửa rình mò của phía bên kia. Ấp chiến lược sau khi Tổng Thống
Ngô Đình Diệm bị giết đã không còn hiệu lực. Một con đường vô hình đã mở ra cho
sự phát triển của phe đối nghịch. Đưa đẩy người dân vô tội vào hai gọng kìm
Quốc Gia và Việt Cộng.
Khi những người bạn đồng minh lần lượt đổ quân
vào thôn xóm thì như giọt nước đã tràn ly. Người dân càng hoảng loạn không biết
đâu là chính nghĩa. Những người Mỹ, người Đại Hàn, người Thái Lan súng ống rầm
rộ khắp mọi ngõ ngách xóm làng. Người dân quê sợ sệt vì lần đầu tiên thấy người
ngoại quốc lùng sục khắp nơi. Đó là cái mồi lửa thật tốt châm ngòi cho phía bên
kia. Họ tuyên truyền trong dân chúng để kéo chính nghĩa về phía họ.
Tôi nói điều này ra có nhiều người sẽ phản đối.
Nhưng đó là sự thật khi người dân không có được một sự giáo dục rõ ràng về phía
chính phủ. Họ không hiểu thế nào là Thế Giới Tự Do và thế nào là Cộng Sản. Họ
không hiểu tại sao người Mỹ có mặt ở nước mình.
Nhan nhãn trên đường những người lính Mỹ say
sưa. Những cô gái thôn quê bỗng chốc thay da đổi thịt. Từ ăn mặc đơn giản lại
lòe loẹt chói mắt. Một số biến thành gái mãi dâm mua vui cho những người lính
Mỹ đen, Mỹ trắng. Những người phụ nữ bỏ quên chồng con, diêm dúa trong những bộ
quần áo mini ngắn ngủn, son phấn sặc sỡ đi làm sở Mỹ. Những áp phe buôn đồ Mỹ,
bán đồ quân tiếp vụ Mỹ, quán rượu mọc ra như nấm. Những đứa bé con lai ra đời,
những bào thai bị vất bên đường và thỉnh thoảng phát hiện xác con gái nằm chết
trong bãi rác. Những tin xấu tràn về thôn xóm, những hình ảnh xa đọa lung lay
xã hội.
Đau đớn là ở chỗ chính nghĩa bị hiểu lầm và kẻ
gian ngoa đã giành chiến thắng. Những người học sinh trong bộ đồng phục tới lớp
buổi sáng. Nhưng sẽ là một liên lạc liên báo cáo tin tức vào buổi tối cho phía
bên kia. Những em học sinh mặt thì già nhưng giấy tờ nhỏ tuổi. Có em đã có vợ ,
có con nhưng vẫn mang giấy tờ giả đến trường để trốn lính. Những chị ngồi trên
xe lam đi chợ nói nói cười cười. Những cô gái đẹp làm người tình hờ của lính.
Họ là những người nằm vùng của phía bên kia. Nhiệm vụ hoạt động mật, báo tin
tức, tiếp tế lương thực,thuốc men và tiếp nhận chỉ thị của Mặt Trận Giải Phóng
Miền Nam.
Trong bộ ngực căng tròn của cô gái đẹp chứa đầy
thuốc trụ sinh. Dưới lằn vải quần mỹ a đen mượt mà kia là những lớp nylon bó
thật chặc vào đùi để tiếp tế. Trong gà mên cơm đem đi ăn một ngày, họ ém thật
chặc cho 2, 3 người ăn. Sau giờ làm, họ để lại bên rừng cho người của mặt trận
về lấy đem đi. Trong làng, đa số là phụ nữ. Nhưng những đứa bé không cha tiếp
tục ra đời mà không ai đặt vấn đề.
Chiến tranh đã đẩy những người dân chơn chất
thành những kẻ phản bội "Ăn cơm Quốc Gia, thờ ma Cộng Sản" Đừng trách
họ, mà hãy trách nhà cầm quyền không bảo vệ được họ. Những người có nhiệm vụ
tuyên truyền không dẫn giải cho dân hiểu được sự thật, đâu là bạn, đâu là thù.
Những người làm công tác chiến tranh chính trị chỉ làm trên giấy tờ mà không đi
vào cái gốc chính là người dân- những người dân quê an phận, hiền lành-
Trong khi đó kẻ gian rình mò trong bóng đêm.
Những bộ mặt giả nhân nghĩa vừa tỉ tê dụ dỗ, vừa hù dọa khủng bố đã len lỏi vào
từng gia đình Những tổ chức bí mật được thành hình, biến người dân thiệt thà
thành tai mắt, những người đàn bà quê mùa thành những bà mẹ anh hùng.
Thành phố rộn rã tiếng cười, những bar rượu,
những đêm vui thâu đêm suốt sáng. Thành phố không có chiến tranh cho nên thành
phố đẹp, thành phố sang. Đất nước VN không phải chỉ là thành phố mà có cả thôn
làng, núi, đồi, sông, biển. Thôn làng càng xa xôi nghèo nàn, Việt Cộng trà trộn
càng nhiều, càng khó bảo vệ. Người dân không thương yêu gì CS nhưng sợ bị trả
thù, sợ bị theo dõi, sợ bị nghi ngờ và bị giết oan. Tội nghiệp người dân, một
cổ hai tròng. Dù đang sống dưới chế độ Cộng Hòa nhưng vẫn bị Mặt Trận khống chế
hàng ngày, hàng đêm.
Gần gũi dân nhất là những người lính Địa Phương
Quân. Họ đóng quân ngay trong làng, sống với dân và người họ sợ nhất lại chính
là những người dân. Ai đã từng đi lính thì khắc biết điều tôi nói là sự thật.
Chỉ một câu nói lỡ lời thì tin tức hành quân được bên kia nắm bắt. Và những
chuyến phục kích kể như thất bại hay bị đảo ngược thế cờ.
Người lính sống trong đường tơ kẻ tóc và người
con gái chấp nhận lấy lính là chấp nhận mọi sự rủi may trong đời. Đám cưới đôi
khi không dám tổ chức tại địa phương vì gia đình sợ bị theo dõi và trả thù.
Thôn làng do chính phủ VNCH làm chủ mà người dân sợ Việt Cộng hơn Quốc Gia.
Đã trễ quá rồi khi nói đến điều này, nhưng tất
cả chúng ta đều là nạn nhân của một cuộc lừa đảo. Bao nhiêu nhân mạng oan khiên
đã chết một cách thảm thương cho cuộc chiến tương tàn. Bao nhiêu thanh niên của
nước Mỹ giàu đẹp đã bỏ thây một cách oan uổng trên chiến trường VN. Vì sự sai
lầm của cả hai phía. Tất cả tang thương đó đã đổ lên vai, lên đầu của thế hệ
chúng tôi. Những người lính, những người vợ lính và những trẻ thơ vô tội.
42 năm qua rồi, nhưng mỗi khi tháng Tư Đen lại
về tôi lại xoay cuồng trong suy nghĩ. Tôi khâm phục cái nhìn thật rõ ràng cốt
lõi cuộc chiến VN của Tống Thống Ngô Đình Diệm. Ngài biết thật rõ ràng về Cộng
Sản kể cả sách lược bảo vệ quốc gia. Ngài không muốn người Mỹ hay đồng minh đổ
bộ vào Việt Nam. Ngài chỉ muốn đựợc tiếp tế vũ khí và ngân sách để bảo vệ và
xây dựng đất nước. Ngài lập ra ấp chiến lược là để cắt đứt nguồn tiếp tế lương
thực và thuốc men cho phía bên kia. Đồng thời xây dựng một lực lượng bảo vệ xóm
làng từ người dân. Nhưng tiếc thay ngài đã bị giết chết. Chế độ Đệ nhị Cộng Hòa
không xoay nỗi thế cờ chính trị. Mỹ bỏ rơi VN. Và sự thất trận đau thương xóa
sổ VNCH trong ngày 30/4/75 lịch sử. Vận mạng đất nước nhược tiểu nằm trong tay
của những đại cường. Một cuộc mua bán, sang nhượng chính trị. Đất nước ta là
món hàng đưa lên bàn cân ngã giá. Kẻ thắng chẳng oai hùng, người thua đầy uất
ức.
Bốn mươi hai năm qua rồi, nhắc lại thêm ngậm
ngùi, đau đớn. Bao nhiêu mạng người đã bỏ thây trong cuộc chiến, trên con đường
chạy loạn 30/4/1975. Bao nhiêu xác người tù CS bị bỏ thây trên rừng thiêng nước
độc. Bao nhiêu xác người bị chết trên biển đông và trong bàn tay của hải tặc.
Bao nhiêu? bao nhiêu? Một câu hỏi làm nghẹn lòng người Việt trên khắp năm châu.
Thoắt một cái đã 42 năm. những người có mặt và
tham dự trong cuộc chiến ngày đó đều đã già. Những mái tóc bạc trắng hay hoa
râm, những tâm hồn đầy những vết thẹo quá khứ và chiến tranh. Cố gắng xây dựng
một thế hệ tiếp nối. Cố gắng sống tốt và làm sống lại một thuở hào hùng. Đôi
chân đã yếu, cơ thể hao mòn. Những người cha, người ông đã tận lực mình vì hai
chữ tự do. Họ thật đáng kính trọng và tự hào. Nhưng trong họ biết bao nhiêu đêm
trăn trở, dằn vặt vì sức tàn, lực kiệt.
42 năm cho những người di tản. Mấy chục năm cho
những người HO đang sống ở một nước khác quê hương mình. Sau 30/4 người sĩ quan
VNCH bị tù đày nơi rừng thiêng nước độc. Không một bản án, không biết ngày về.
Họ được thả ra với một thân thể suy nhược, một tâm hồn loang lỗ những thương
đau. Trong họ mọi thứ đều đỗ vỡ, bi thương. Được thả từ nhà tù hẹp ra nhà tù
lớn với vài chục đồng lộ phí và một túi hành trang nhẹ tênh. Nhưng họ lại mang
quá nặng cái lý lịch đen "Ngụy Quân" đè bẹp cuộc đời và cả gia đình.
Có người tìm lại được mái ấm gia đình. Có vợ, có con để dựa nương, bám víu. Có
người không còn nhà cửa, vợ con thân thích.
Nếu không có chương trình HO không biết bây giờ
cuộc sống của những người tù CS sẽ ra sao? Không có chương trình HO. Không có
những người liều chết vượt biển tìm tự do. Chúng ta sẽ không có một thế hệ thứ
hai thứ ba thành công trên đất nước Hoa kỳ hay trên thế giới. Chúng ta sẽ không
bao giờ có một Little Sai Gon trên đất Mỹ. Chúng ta sẽ không thể hảnh diện giơ
cao lá cờ vàng và hát Quốc ca. Chúng ta không có xe hoa diễn hành ngày tết
Nguyên Đán, Chúng ta cũng không thể có những bảo tàng lịch sử "Quân lực
VNCH". Không có tượng đài Đức Trần Hưng Đạo và cũng không thể có những
nghị quyết "Vinh Danh cờ vàng" tại nhiều thành phố trên nước Mỹ, Úc,
Canada.
Cám ơn ông Robert Funseth, Bà Khúc Minh Thơ, Cám
ơn những ân nhân trên thế giới đã cứu vớt, đã mở con đường sống cho những tù
CS, những người liều chết tìm tự do như chúng tôi. Rất cám ơn Bà Hạnh Nhơn với
chương trình "Cám Ơn Anh Người Thương Binh VNCH". Một chương trình
đầy tình người. Ứớc mong sao những người thương phế binh còn lại được Hoa Kỳ
cứu xét và cho đi định cư. Để họ được chăm sóc và gia đình có đời sống tốt đẹp
hơn.
42 năm, một thời gian quá nửa đời người. Những
chứng nhân lịch sử rất nhiều người đã nằm xuống vì tuổi già, vì bệnh tật. Những
văn nhân, thi sĩ, họa sĩ, nhạc sĩ nỗi danh cũng quá nửa đã ra đi. Một thế hệ
VNCH lần lần đi vào quá khứ. Thế hệ tiếp nối lớn lên tại Mỹ, sinh ra tại Mỹ và
chúng gia nhập vào dòng chính để làm một người Mỹ thực thụ.
Hôm tuần trước tôi đi dự một đám ma. Người chết
là một bà bác 90 tuổi. Con cái, người thân quen đến viếng tang đa phần là người
Việt, nói tiếng Việt. Nhưng quỳ dưới kia các cháu dâu rễ đa phần là người Mỹ.
Bầy cháu cố cũng là những đứa bé Mỹ lai nói toàn tiếng Mỹ. Cả một đại gia đình
nói chuyện với nhau bằng tiếng Mỹ. Người chết chắc hẳn sẽ buồn và không hiểu
chúng đang nói chuyện gì. Người tham dự như tôi cũng xót xa cho ngay bản thân
mình. Rồi thì cũng thế mà thôi hay sao?
Không? Chúng ta đã có những lớp dạy tiếng Việt.
"Tiếng Việt còn, nước ta còn." Chúng ta không thể không hòa nhập
nhưng không thể để mất nguồn cội. Những thế hệ VNCH thứ hai thứ ba đang học hỏi
để hiểu lý do tại sao chúng có mặt nơi này. Các cháu đang làm sống lại dòng sử
Việt. Các cháu giương cao lá cờ vàng và các cháu tự hào về nó.
Dù muốn dù không chúng ta cũng đã rời khỏi VN.
Mọi việc của quê hương đất nước phải do người trong nước quyết định. Có thay
đổi được vận mệnh, có bảo vệ VN khỏi bàn tay xâm lược của Tàu Cộng hay không là
do người trong nước thực hiện. Chúng ta chỉ có thể ủng hộ tinh thần, tiếp tay
đưa mọi việc ra dư luận quốc tế để làm áp lực.
Các bạn ơi ! 42 năm rồi cho một cuộc chiến, cho
một đời người. Con gái tôi sinh ra 3 tháng sau ngày mất nước. Bây giờ cháu đã
42 tuổi, là một phụ nữ trung niên, con cái đã vào Trung học. Người lính VNCH
trẻ nhất cũng đã ngoài 60. Những người lính già bây giờ đều đã đi gần cuối cuộc
đời. Sống nơi xứ người tuy đầy đủ vật chất nhưng vẫn là nỗi khắc khoải khôn
nguôi cho những giấc mơ về một VN tự do dân chủ.
Tôi yêu quê hương VN tôi lắm. Tôi nhớ gia đình,
họ hàng anh em và bạn bè tôi. Tôi nhớ từng con đường, từng góc vườn kỷ niệm của
tuổi thơ và tuổi trẻ. Thú thật tôi sợ lắm. Sợ một ngày nào đó tôi trở về không
nhận ra đất nước của mình. Tôi sợ Trung Cộng sẽ chiếm trọn Việt Nam. Người Việt
mình sẽ bị làn sóng người Tàu tràn xuống tịch thu nhà cửa, chiếm cứ ruộng vườn.
Họ sẽ đày người Việt mình đi vào những nơi rừng núi hay đồng khô cỏ cháy. Họ sẽ
xóa một nước VN như chính quyền hiện nay xóa sổ VNCH. Họ sẽ tàn bạo hơn, quyết
liệt hơn, dã man hơn để đồng hóa chúng ta. Vì mộng bá chiếm VN ấp ủ mấy ngàn
năm nay đã toại nguyện.
Một SàiGòn xưa đã mất. Một nền văn hóa nhân bản
đã mất. Có thể rồi đây nước Việt Nam sẽ bị xóa sổ trên bản đồ thế giới . Chẳng
ai còn nhớ đến bà Trưng, bà Triệu, Hưng Đạo Vương, vua Quang Trung....
Tôi có bi quan quá hay không? Xin nhường câu trả
lời cho tất cả mọi người. Chỉ mong sẽ không bao giờ là sự thật. Chỉ mong được
như vậy.
Xin các đấng tiền nhân, hương linh những anh
hùng tử sĩ phò hộ cho nước Việt mình vượt qua cơn bão giông này.
42 năm đã quá đủ cho những thương đau.
Nguyễn thị Thêm
Tháng 4/2017
Tháng 4/2017
304Đen –
llttm - QV
No comments:
Post a Comment