Sài Gòn : Trăm nghìn nhánh khổ
Các quán nhậu vỉa
hè dọc kênh Nhiêu Lộc dạo này nhiều người hát rong, cũng ampli, loa, micro
không dây, nhạc đệm … Họ chỉ hát toàn nhạc xưa, nhạc sến, với điệu rumba,
bolero, nghe tưởng như đồng hồ đếm ngược.
Lần trước về Sài Gòn, tôi đã ngồi quán vỉa hè, nghe những bài ca vỉa hè như thế "… Buồn vào hồn không tên, thức giấc nửa đêm nhớ chuyện xưa vào đời "(2). Lặng cả người!
Tôi chợt nhớ những ngày sau tháng Tư 75, đám bạn bỗng nhiên làm đám cưới chớp nhoáng, lấy vợ lấy chồng để đối phó với thời cuộc, rồi vội vã tìm đường vượt biên. Có đứa vượt được qua biên giới, nhưng cũng có đứa về bên kia thế giới. Những người ở lại như tôi, tưởng họ đã đến bến bờ thiên đường.
Lần trước về Sài Gòn, tôi đã ngồi quán vỉa hè, nghe những bài ca vỉa hè như thế "… Buồn vào hồn không tên, thức giấc nửa đêm nhớ chuyện xưa vào đời "(2). Lặng cả người!
Tôi chợt nhớ những ngày sau tháng Tư 75, đám bạn bỗng nhiên làm đám cưới chớp nhoáng, lấy vợ lấy chồng để đối phó với thời cuộc, rồi vội vã tìm đường vượt biên. Có đứa vượt được qua biên giới, nhưng cũng có đứa về bên kia thế giới. Những người ở lại như tôi, tưởng họ đã đến bến bờ thiên đường.
Bước lên tàu là
ngàn khơi sóng vỗ, không phải là chuyến xe Sài Gòn – Đà Lạt. Có khi Hà Bá mời
xuống chơi, có khi tủi nhục trên đường vượt biển, phần còn lại là may mắn. Mà
có may mắn lọt vào xứ người cũng chưa hết.
Cô bạn tôi cao chưa quá thước rưỡi, với tay đưa khay bánh vào ngăn, trượt chân, u đầu sứt trán. Quên cả đau, vội vội vàng vàng lượm bánh xếp lại vào khay. Bà xếp Tây mắng: Xứ này không ăn dơ như thế.
Cũng có người đi làm nail, “tiền tươi thóc thật”, dồn hết cho con ăn học. Hy sinh đời bố, củng cố đời con; hiểu sát nghĩa đen là đây, là mồ hôi trộn nước mắt. Khi con thành tài, thân mẹ cũng tàn tạ. Tiền gửi về nhà, người thân trong nước , nhiều khi tưởng đâu bên đó kiếm tiền dễ như ăn cơm sườn, xin thêm thứ này thứ nọ. Có biết đâu đó là tiền chắt chiu, có khi là tiền thí mạng không mua bảo hiểm y tế.
Nhưng cũng có nhiều người kiên nhẫn vừa làm vừa học, thành danh. Nơi xứ người, dù sao vẫn có nhiều cơ hội hơn trong nước, vấn đề là có chịu nắm bắt hay không mà thôi.
Trong nước thì coi như bế tắc. Hồi đó, tôi dạy kèm thêm luyện thi đại học, dạy nhóm năm, bảy học sinh. Có em học xuất sắc, bài thi làm không chê vào đâu được. Vậy mà rớt.
Em là con “ngụy”, thứ “ngụy” còn trong trại cải tạo, làm sao vào đại học nổi, em rớt ngay từ bãi gửi xe. Em đến báo tin, thầy trò ngồi uống cà phê vỉa hè, buồn ứa nước mắt. Thời điểm này không dung những tiềm năng như em … Số phận đời người chứ đâu phải trò chơi chính trị.
Những năm sau 75, giáo sư, bác sĩ, ông này bà nọ xuống đường ra chợ trời hết, người đạp xích lô, chạy xe ôm, người bơm mực bút bi, bán bún riêu, mở quán cà phê vỉa hè, buôn hàng lạc soong … Người nào lanh hơn thì buôn hột xoàn , đổi đô-la …
Năm 78, tôi gặp một phụ nữ ăn mặc lam lũ, nhưng đẹp, quý phái, không quá ba mươi, trên chuyến tàu chợ. Chị kéo lê hai bao than ra gần cửa tàu, ngước mắt nhìn tôi, nói như năn nỉ: Lát nữa gần đến ga Bình Triệu, anh làm ơn đạp dùm tôi hai bao than này xuống.
Chị buôn lậu than, đến ga sẽ bị tịch thu. Đôi mắt chị buồn và nhẫn nhục quá, làm tôi nhớ đến đôi mắt của bà mẹ trong một tác phẩm của C.V. Gheorghiu. Cảnh sát bắt bà mẹ vào bót để tra hỏi nơi ẩn nấp của con bà. Tác giả đã mô tả đôi mắt của bà, cũng buồn và nhẫn nhục như thế.
Có lần đi chơi khuya, tôi gặp Bùi Giáng ở ngã ba Trần Quang Diệu – Trương Minh Giảng(3), ăn mặc chắp vá màu mè như phường tuồng, cầm cây chổi cùn múa may, chặn đầu xe tôi lại: Cho trẫm điếu thuốc.
Hoàng thượng đã chiếu cố dân đen, dân nào dám cãi. Tôi rút điếu thuốc, cung kính châm lửa cho hoàng thượng. Ngài rít một hơi rồi phẩy tay: Cho lui …
Lui rồi, ngoái cổ lại, vẫn thấy hoàng thượng tiếp tục múa chổi đi quyền.
Cô bạn tôi cao chưa quá thước rưỡi, với tay đưa khay bánh vào ngăn, trượt chân, u đầu sứt trán. Quên cả đau, vội vội vàng vàng lượm bánh xếp lại vào khay. Bà xếp Tây mắng: Xứ này không ăn dơ như thế.
Cũng có người đi làm nail, “tiền tươi thóc thật”, dồn hết cho con ăn học. Hy sinh đời bố, củng cố đời con; hiểu sát nghĩa đen là đây, là mồ hôi trộn nước mắt. Khi con thành tài, thân mẹ cũng tàn tạ. Tiền gửi về nhà, người thân trong nước , nhiều khi tưởng đâu bên đó kiếm tiền dễ như ăn cơm sườn, xin thêm thứ này thứ nọ. Có biết đâu đó là tiền chắt chiu, có khi là tiền thí mạng không mua bảo hiểm y tế.
Nhưng cũng có nhiều người kiên nhẫn vừa làm vừa học, thành danh. Nơi xứ người, dù sao vẫn có nhiều cơ hội hơn trong nước, vấn đề là có chịu nắm bắt hay không mà thôi.
Trong nước thì coi như bế tắc. Hồi đó, tôi dạy kèm thêm luyện thi đại học, dạy nhóm năm, bảy học sinh. Có em học xuất sắc, bài thi làm không chê vào đâu được. Vậy mà rớt.
Em là con “ngụy”, thứ “ngụy” còn trong trại cải tạo, làm sao vào đại học nổi, em rớt ngay từ bãi gửi xe. Em đến báo tin, thầy trò ngồi uống cà phê vỉa hè, buồn ứa nước mắt. Thời điểm này không dung những tiềm năng như em … Số phận đời người chứ đâu phải trò chơi chính trị.
Những năm sau 75, giáo sư, bác sĩ, ông này bà nọ xuống đường ra chợ trời hết, người đạp xích lô, chạy xe ôm, người bơm mực bút bi, bán bún riêu, mở quán cà phê vỉa hè, buôn hàng lạc soong … Người nào lanh hơn thì buôn hột xoàn , đổi đô-la …
Năm 78, tôi gặp một phụ nữ ăn mặc lam lũ, nhưng đẹp, quý phái, không quá ba mươi, trên chuyến tàu chợ. Chị kéo lê hai bao than ra gần cửa tàu, ngước mắt nhìn tôi, nói như năn nỉ: Lát nữa gần đến ga Bình Triệu, anh làm ơn đạp dùm tôi hai bao than này xuống.
Chị buôn lậu than, đến ga sẽ bị tịch thu. Đôi mắt chị buồn và nhẫn nhục quá, làm tôi nhớ đến đôi mắt của bà mẹ trong một tác phẩm của C.V. Gheorghiu. Cảnh sát bắt bà mẹ vào bót để tra hỏi nơi ẩn nấp của con bà. Tác giả đã mô tả đôi mắt của bà, cũng buồn và nhẫn nhục như thế.
Có lần đi chơi khuya, tôi gặp Bùi Giáng ở ngã ba Trần Quang Diệu – Trương Minh Giảng(3), ăn mặc chắp vá màu mè như phường tuồng, cầm cây chổi cùn múa may, chặn đầu xe tôi lại: Cho trẫm điếu thuốc.
Hoàng thượng đã chiếu cố dân đen, dân nào dám cãi. Tôi rút điếu thuốc, cung kính châm lửa cho hoàng thượng. Ngài rít một hơi rồi phẩy tay: Cho lui …
Lui rồi, ngoái cổ lại, vẫn thấy hoàng thượng tiếp tục múa chổi đi quyền.
Bùi Giáng đã có mầm mống bất thường từ trước rồi. Sau 75 nặng hơn, lang thang khắp chốn. Cái điên của Bùi Giáng thật hay giả, cũng khó biết. Mất trí như ông vậy mà hay, ý thức buồn vui làm chi cho khổ ?
Mà Sài Gòn lúc đó sao dễ gặp “người điên” thế ! Cũng không phải điên, họ có phá phách gì ai đâu. Tôi thường gặp vài ông ăn mặc lịch sự, áo sơ mi trong quần, có ông còn đeo cà vạt, đi đi lại lại ở khu Lê Công Kiều, nơi bán sách cũ. Vừa đi vừa khua tay, lảm nhảm rồi lại gật gù …
Người bạn tôi qua được tới bến bờ, vừa làm vừa học, gửi về cho tôi thùng quà chừng ký rưỡi, kèm bức thư ngắn: " Gửi mày mấy hộp thuốc Tây, bán đi mà lai rai. Còn lọ nhỏ để uống, đừng bán. Thuốc an thần đó." Tâm thần phải chăng là lối thoát của con người với thực tại ?
Sau 75, tôi học được một điều, mà đến nay vẫn thấy chí lý. Đó là, người chiến thắng tuyệt đối đúng. Người chiến thắng tự hào là đúng rồi, nhưng có khi tự hào cả những cái sai. Sai mà cứ tưởng mình đúng. Chuyện “tủ lạnh chạy đầy đường” chỉ là chuyện khôi hài, chuyện nhỏ. Cái “sai mà tưởng đúng” mới làm đất nước chậm nhịp, di lụy chẳng biết bao giờ mới hết.
Cả đất nước đã có lúc “sống” bằng khẩu hiệu. Nghe riết rồi quen, nghe tai này lọt tai kia cũng quen luôn. Không quen lỡ có ngày phát điên thì sao?
Người lẽ ra phải điên mà không chịu điên, đó là mấy bà. Cầm có tí tẹo tiền, xách giỏ đi chợ, loanh quanh đầu chợ cuối chợ cả tiếng đồng hồ, có khi chẳng mua được thứ gì.
Mà có tiền đi chợ là còn may, có người chỉ khoai sắn, rau lang, bí đỏ … quanh năm. Ăn để sống sót thì thứ gì chẳng nhét vô bụng được. Bột ngọt khi đó là thần thánh.
Mấy ông “tù cải tạo” coi vậy chứ chỉ khổ cái thân, chứ cái đầu chưa đến nỗi. Có biết bên ngoài thế nào đâu mà khổ, mà lo.
Vợ một bác sĩ quân y đi thăm nuôi, dúi vào tay chồng ít tiền. Thăm nuôi lần sau, thấy tiền vẫn còn nguyên, ông chồng không dám xài. Bà than: Tội nghiệp cho cả gia đình tôi ! Ở ngoài vợ con nhịn đói để nuôi tù, ở trong nhịn đói vì không nỡ nuốt cái đói khát của vợ con.
Não lòng đến thế là cùng ! Nước mắt nuốt ngược thế này, chỉ bị nghẹn mà không phát điên, bà này chắc có căn phần phúc đức.
Nghe nói mấy ông “ngụy cải tạo” định lập ra ngày vinh danh mấy bà vợ. Không đủ đâu mấy ông. Mấy bà này chắc phải phong thánh.
Tháng Tư năm nay, Sài Gòn nóng khủng khiếp. Sài Gòn không mưa nhưng Đà Lạt mưa. Những ngày cuối tháng Tư năm nào Đà Lạt cũng mưa, mưa mù mịt che khuất cả đồi thông ở Couvent des Oiseaux đối diện nhà, nhưng mưa chỉ vào lúc trưa chiều, tối tạnh.
Đà Lạt, tám giờ tối đã như mười hai giờ khuya ở Sài Gòn. Tôi vẫn thích đi bộ mỗi khi có chút hơi men thế này. Con đường dốc về nhà , thường kéo theo mệt mỏi của đời người. Tựa lưng vào cửa nhà, hoa lá trong vườn yên tĩnh như đêm. Dưới ánh đèn đường rọi qua hàng rào, bóng của lá cây ngọc lan chập chờn trên mặt sân.
Cuối tháng Tư rồi. Người ta sẽ đốt pháo hoa ở Sài Gòn để ăn mừng. Ai vui xin cứ vui. Nhưng còn chút tâm tình này : không nói về những ngày sau 75 trong mắt tôi là như thế nào ... lòng dạ chưa yên …
Đời trăm nghìn nhánh khổ, nhánh nào cho người, nhánh nào cho mình? Năm 75 là ngã rẽ của đời người. Bạn bè, người thành danh, đứa bầm dập, và cho dù ở phương trời nào, Tây hay ta, nỗi khổ vẫn theo số mệnh mà đến. Giờ đây, đứa nào cũng chạm tay vào buổi hoàng hôn đời người.
Tháng Tư, tôi thắp ngọn nến trong lòng. Thoảng trong mùi hương ngọc lan, tôi hát theo, hát thầm bài hát nghe được ở quán rượu …
Cuộc đời là hư vô, bôn ba chi xứ người,
Khi mình còn đôi tay…(1)
Vũ Thế Thành, Đà Lạt, 28.04.2016
Chú thích:
(1) Xin thời gian qua mau – Lam Phương
(2) Nửa đêm ngoài phố – Trúc Phương
(3) Nay là đường Lê Văn Sỹ
Sài Gòn, Một Góc Ký Ức Và Bây Giờ
Tôi sinh ra, lớn
lên ở Sài Gòn. Tuổi thơ ở khu Tân Định. Dọn nhà một lần cũng lòng vòng đâu đó,
gần cổng xe lửa số Sáu, bên bờ kênh Nhiêu Lộc và ở tới giờ. Ở riết thấy nhàm, tôi
thấy Sài Gòn vẫn vậy. Vẫn vậy là kiểu ăn, cách nói, cà phê, quán nhậu …chứ đường
xá, nhà cửa … thay đổi nhiều.
Trước 1975, đôi khi tôi cũng lêu lổng ở Đà Lạt, mê cảnh núi đồi, ao hồ, sông suối, yên tĩnh và nhịp sống chậm rãi của Đà Lạt, và cũng không loại trừ mê luôn người Đà Lạt hiền hòa và hiếu khách. Tôi nhủ, rồi ngày nào đó sẽ về đây dưỡng già (non).
Bây giờ tôi đã về Đà Lạt, cũng hơn sáu năm rồi. Nợ đời chưa dứt, nên khi Sài Gòn lúc Đà Lạt.
Sài Gòn và Đà Lạt đều là dân tứ xứ. Ở lâu thì thành người Sài Gòn hay dân Đà Lạt gốc. Mỗi nơi đều có con người và phong cách riêng. Rồi cuộc đời dâu bể, nơi còn nơi mất. Đà Lạt đang mất dần, gượng không nổi, nhưng Sài Gòn còn là Sài Gòn, dù có mất chút đỉnh.
Ai ở đâu tới mặc kệ, nhưng Sài Gòn không có đất sống cho ‘bún mắng cháo chửi’, không phân biệt khách Tây khách ta, không giẫm nát hoa hội chợ, phở Hà Nội không thể ‘tuyệt đối đúng’ khi thiếu rau thơm giữa đất Sài Gòn … Trước như vậy, giờ vẫn thế.
Nhưng Đà Lạt thì khác, chụp giựt, níu kéo, chém chặt, phân biệt Tây ta … đang hình thành ở những ngày cuối tuần hay lễ hội. Đà Lạt tuổi đời trẻ quá, chưa kịp bén rễ thì bão đời đã làm tản mác con người Đà Lạt. Đà Lạt thiếu ‘con người Đà Lạt’ đâu còn gì là hồn Đà Lạt. Đà Lạt chỉ còn thân xác như bức họa đắt giá của Picasso dưới con mắt của kẻ phàm phu.
Nói vậy thôi, Đà Lạt vẫn còn vài nơi yên tĩnh, hoa lá núi đồi , để tôi còn đọc sách bên tách trà ly rượu. Rồi ngẫm lại mới thấy, sao mà những năm tháng lớn lên ở Sài Gòn êm ả quá. Và rồi cũng nơi đó, những năm tháng cùng cực, cơm áo gạo tiền, cố giữ cho được cái nguyên tắc sống của riêng mình, thiệt vất vả.
Ở Sài Gòn tôi nhớ Đà Lạt, nhưng ở Đà lạt tôi lại nhớ Sài Gòn. Hai cái nhớ khác nhau. Nhớ Đà Lạt vì lỡ thương. Còn nhớ Sài Gòn vì duyên vì nợ.
Hầu hết những bài trong sách đều được viết ở Đà Lạt. Phải xa Sài Gòn mới ngứa tay viết được, mà viết tùy bút kiểu này cũng coi như một cách tính sổ với cuộc đời. Đà Lạt làm tôi biết nhớ Sài Gòn.
Chỉ mới ba trăm cây số Đà Lạt – Sài Gòn, lại còn đi đi về về mà đã thế, huống chi những người ở xa Sài Gòn nửa vòng trái đất, chục năm, hai ba chục năm biền biệt thì sao? Có lẽ chỉ còn cách như người bạn tôi, nửa đêm không ngủ được, gọi phone về , thở dài: Tao nhớ Sài Gòn chết … mẹ!
Xa Sài Gòn mới thấm, mới cảm thấy thiếu thiếu cái gì đó, như từ bỏ một thói quen, bứt rứt khó chịu như cai thuốc.
Nhớ Sài Gòn chứ sao không! Nhớ con hẻm lầy lội, nhớ tiếng mưa rơi trên mái tôn, nhớ tuổi thơ, nhớ tiếng rao hàng giọng Sài Gòn, nhớ sầu riêng vú sữa, nhớ đủ thứ … Xa rồi mới biết thương biết nhớ …
Trước 1975, đôi khi tôi cũng lêu lổng ở Đà Lạt, mê cảnh núi đồi, ao hồ, sông suối, yên tĩnh và nhịp sống chậm rãi của Đà Lạt, và cũng không loại trừ mê luôn người Đà Lạt hiền hòa và hiếu khách. Tôi nhủ, rồi ngày nào đó sẽ về đây dưỡng già (non).
Bây giờ tôi đã về Đà Lạt, cũng hơn sáu năm rồi. Nợ đời chưa dứt, nên khi Sài Gòn lúc Đà Lạt.
Sài Gòn và Đà Lạt đều là dân tứ xứ. Ở lâu thì thành người Sài Gòn hay dân Đà Lạt gốc. Mỗi nơi đều có con người và phong cách riêng. Rồi cuộc đời dâu bể, nơi còn nơi mất. Đà Lạt đang mất dần, gượng không nổi, nhưng Sài Gòn còn là Sài Gòn, dù có mất chút đỉnh.
Ai ở đâu tới mặc kệ, nhưng Sài Gòn không có đất sống cho ‘bún mắng cháo chửi’, không phân biệt khách Tây khách ta, không giẫm nát hoa hội chợ, phở Hà Nội không thể ‘tuyệt đối đúng’ khi thiếu rau thơm giữa đất Sài Gòn … Trước như vậy, giờ vẫn thế.
Nhưng Đà Lạt thì khác, chụp giựt, níu kéo, chém chặt, phân biệt Tây ta … đang hình thành ở những ngày cuối tuần hay lễ hội. Đà Lạt tuổi đời trẻ quá, chưa kịp bén rễ thì bão đời đã làm tản mác con người Đà Lạt. Đà Lạt thiếu ‘con người Đà Lạt’ đâu còn gì là hồn Đà Lạt. Đà Lạt chỉ còn thân xác như bức họa đắt giá của Picasso dưới con mắt của kẻ phàm phu.
Nói vậy thôi, Đà Lạt vẫn còn vài nơi yên tĩnh, hoa lá núi đồi , để tôi còn đọc sách bên tách trà ly rượu. Rồi ngẫm lại mới thấy, sao mà những năm tháng lớn lên ở Sài Gòn êm ả quá. Và rồi cũng nơi đó, những năm tháng cùng cực, cơm áo gạo tiền, cố giữ cho được cái nguyên tắc sống của riêng mình, thiệt vất vả.
Ở Sài Gòn tôi nhớ Đà Lạt, nhưng ở Đà lạt tôi lại nhớ Sài Gòn. Hai cái nhớ khác nhau. Nhớ Đà Lạt vì lỡ thương. Còn nhớ Sài Gòn vì duyên vì nợ.
Hầu hết những bài trong sách đều được viết ở Đà Lạt. Phải xa Sài Gòn mới ngứa tay viết được, mà viết tùy bút kiểu này cũng coi như một cách tính sổ với cuộc đời. Đà Lạt làm tôi biết nhớ Sài Gòn.
Chỉ mới ba trăm cây số Đà Lạt – Sài Gòn, lại còn đi đi về về mà đã thế, huống chi những người ở xa Sài Gòn nửa vòng trái đất, chục năm, hai ba chục năm biền biệt thì sao? Có lẽ chỉ còn cách như người bạn tôi, nửa đêm không ngủ được, gọi phone về , thở dài: Tao nhớ Sài Gòn chết … mẹ!
Xa Sài Gòn mới thấm, mới cảm thấy thiếu thiếu cái gì đó, như từ bỏ một thói quen, bứt rứt khó chịu như cai thuốc.
Nhớ Sài Gòn chứ sao không! Nhớ con hẻm lầy lội, nhớ tiếng mưa rơi trên mái tôn, nhớ tuổi thơ, nhớ tiếng rao hàng giọng Sài Gòn, nhớ sầu riêng vú sữa, nhớ đủ thứ … Xa rồi mới biết thương biết nhớ …
Vũ Thế Thành
No comments:
Post a Comment