BIẾT THƯƠNG MÀU LÁ
Suốt buổi chiều tôi đi qua dưới những tàn lá vệ
đường. Từ lúc mặt trời ban trưa đổ lênh láng trên da thịt rám nắng ướt mồ
hôi, cho đến khi hoàng hôn lần xuống, màu xám xanh của trời phơn phớt cùng những
ngọn gió mát thổi hây hây từ con sông quen thuộc.
Tôi đi hái những trái bàng xanh, đè nghiến nó
trên mặt đường, dùng đá nhọn hay chiếc guốc mộc đập vỡ nát lớp vỏ ngoài xơ xác,
đôi chút hột bàng không còn nguyên vẹn, từng mảnh nhỏ béo bùi trong miệng. Hồi
đó, tôi chưa biết thương màu lá. Tôi chẳng hề quan tâm đến lá cây, lá non, lá vừa
xanh hay lá chết vừa lìa cành. Tôi chỉ chú ý đến những trái chín.
Và có lẽ không nơi nào bằng được vườn nhà tôi,
quanh năm cây đầy trái. Mùa nào cũng có một thứ trái cây vừa ửng chín, thay
phiên nhau cống hiến quả ngọt cho tôi không bao giờ thiếu vắng. Hết nhãn lồng đến
mãng cầu, trứng cá, trứng gà, cam, quýt, thanh trà, mít, khế ngọt, ổi, “chay”…
và một vài thứ khác nữa, tưởng có thể bày một cửa hàng trái cây ngay trước cổng.
Nhưng nhà tôi không phải là một nhà buôn bán.
Nhà sống êm đềm tĩnh mịch, dành những căn phòng cổ kính với bàn thờ ông bà nghi
ngút khói hương cho người lớn. Còn khu vườn hoàn toàn dành riêng cho trẻ thơ.
Và trẻ thơ thì không thích đổi chác. Trẻ thơ xẻ
từng múi bưởi ngọt đem chia sớt cho bạn bè. Đêm đêm khi đói bụng trẻ thơ đến
trước cổng nhà bạn, huýt sáo ra hiệu rồi xúi bạn xin mẹ vài đồng để hai đứa dắt
tay nhau ra chợ ăn chè đông sương. Trẻ thơ, thường là một kẻ hào hoa, đôi khi
phải làm hành khất… “đại hiệp”, nhưng chẳng bao giờ là một nhà doanh thương mại
bản.
(Đến nay, khi đã lớn, tôi vẫn còn là một kẻ
hành khất hào hoa và cũng là một khách hào hoa… khất thực).
… Vườn nhà đến mùa trăng, tôi bỏ quên vườn. Vì
một ngày lễ Trung thu tưng bừng đang được tổ chức ở trường học.
Trường nằm bên bờ sông, năm ấy thay vì phát
quà bánh Trung thu chán phèo như thường lệ, thầy giáo dạy môn sử ký đề nghị dựng
lại một chiến tích lịch sử oai hùng trên sông: Hưng Đạo Vương đại thắng Ô Mã
Nhi. Cả trường bận rộn tập dượt liên tiếp mấy ngày. Áo mũ xênh xang, gươm giáo
sơn phết hoa hòe, pháo khói màu cũng xoay được đủ cả. Ông hiệu trưởng chạy đi
thuê mấy chiếc đò, thầy giáo lật lại cuốn Việt Nam sử lược của cụ Trần Trọng
Kim để tìm thêm vài chi tiết.
Thế rồi chiều mùa thu hôm ấy, nước sông Hương
gợn sóng, là Bạch Đằng Giang dậy sóng.
Đáng buồn thay, tôi bị xếp vào phe quân Tàu, lại
phải thủ vai Ô Mã Nhi mới chết chứ. Tụi được làm quân Việt, bây giờ đang hớn hở
múa tay múa chân hăng hái xuống thuyền ở bờ sông bên kia. Cái thằng bạn cùng lớp
được vinh dự và may mắn làm Hưng Đạo Vương lăng xăng sửa râu sửa nón, tay cầm
kiếm gỗ hứng chí vung vẩy.
Quân tàu phù như bọn tôi thì ngồi trên đò mặt
mày rầu rĩ, những bộ mặt bôi phấn vẽ râu khi méo xẹo bất mãn trông như những thằng
hề. Chưa ra quân mà biết chắc đã thua trận rồi, làm sao cãi lại lịch sử được.
Bên kia bờ, đại quân Việt đã từ từ chèo đò
tách bến, “khí thế” coi dũng mãnh gớm. Quân Tàu chưa chi mà đã thấy bủn rủn tay
chân. Tôi phải vén cái mặt nạ Ô Mã Nhi lên một chút, hớp một miếng “bia lây” để
lên tinh thần, rồi thúc hối “quân lính” chèo thuyền xung phong. Đúng như chương
trình, bọn tôi được tấn công tưng bừng một lúc, Hưng Đạo Vương ra lệnh lui binh
để dụ địch. Quân địch chèo đò tại một quãng, rồi thi nhau ầm ĩ la hét thách thức
quân Tàu đuổi theo.
Tôi đang ngần ngừ. Tiếng thầy giáo cố vấn đang
chạy dọc theo trên bờ sông gân cổ trong máy phóng thanh:
– Đuổi theo đi… Còn chờ gì nữa?
“Phó tướng” của tôi, một thằng chuyên môn đứng
nhất về Việt sử, lên giọng “quân sư” ngăn cản:
– Đừng dại. Coi chừng trúng kế, tụi nó dụ mình
đến khúc sông có đóng cọc sắt để phục kích đó.
“Ô Mã Nhi” bực mình, càu nhàu:
– Ai mà không biết. Nhưng thầy đã dặn mình là
phải đuổi theo để tụi nó bao vây bắt sống. Làm sai chương trình là chủ nhật bị
cấm túc liền.
Thế là quân Tàu cũng phải chèo đò đuổi theo, dầu
biết trước là sẽ đi vào “cửa tử”. Khi những chiếc đò của hai phe chạm sườn vào
nhau, một tiếng pháo hiệu nổ vang cùng lúc với tiếng reo hò “Sát Đát! Sát Đát!”
inh ỏi. Quân Việt tới tấp nhảy qua thuyền bọn tôi, vung gươm sát phạt. Đã được
lệnh trước, tụi tôi chưa xáp trận mà đã phải buông gươm giả vờ lăn ra chết.
“Hưng Đạo Vương” hùng hổ nhảy tới trước mặt
tôi, định đánh bay thanh kiếm gỗ, nhưng hắn đánh trật vào cườm tay tôi một cú
đau điếng. Tôi cáu sườn vung mã tấu quất vào ống quyển hắn một cái “cộåp”, thằng
nhóc ngã lăn ra. Kêu oai oái mà chẳng thấy thằng lính hầu nào thèm đỡ dậy. Quân
Tàu thấy chủ tướng đột ngột phản công một cách lý thú vỗ tay khoái trá reo hò rồi
lượm gươm giáo lăn vào chiến đấu. Thế là sai hẳn với chương trình, quân Tàu giờ
đây lại sắp thắng thế.
Quan khách (trong đó, trời ơi… có ông hiệu trưởng!)
đang đứng trên bờ chắc ngạc nhiên lắm. Tôi lại nghe tiếng thầy giáo khàn giọng
la hét:
– Ô Mã Nhi! Mi làm gì kỳ vậy? Bọn mi mau vất
gươm đầu hàng… nhảy xuống sông làm bộ chết mau lên!
Thằng phó tướng của tôi lại lên giọng… “‘Tam
Quốc Chí”:
– Mi đừng thèm nghe. Tướng đã ra quân có khi
không thèm tuân mệnh vua!
Trời ơi, tôi phải làm sao đây? Một bên là thầy
giáo cứ bắt đầu hàng khi mình đang sung sức như cọp dữ, một bên là tên quân sư
quạt mo với bầy lính cứ muốn choảng nhau một trận tận tình rồi ra sao thì ra…
“Hưng Đạo Vương” bây giờ mới lồm cồm bò dậy được
một tay nắn bóp ống chân, xuống giọng năn nỉ với tôi:
– Thôi mi chịu thua đi. Không cả hai đứa đều bị
phạt hết.
Tôi đành phải nghe theo lời nó. Không tuân mệnh
vua thì chưa biết sao chứ cãi lệnh thầy thì ốm đòn là cái chắc… Và kết quả trận
đánh đúng theo như lịch sử, quân Tàu lớp bị bắt sống, lớp chết trôi đầy sông,
chỉ có tên phó tướng của tôi là cứng đầu hơn cả, hắn bực tức đòi nhảy xuống
sông “tuẫn tiết” (nhưng tôi biết hắn sẽ bơi một mạch lẻn trước lên bờ sông, chỗ
đang có hàng bán xi- rô và đá chanh muối).
… Tôi về đến nhà khi trời đã tối. Mâm cỗ Trung
thu đã được bày ra trước sân, bánh nướng, bánh dẻo, trà Tàu… Bà ngoại tôi cùng
mấy ông cậu, bà dì ngồi trầm ngâm trong vườn, mọi người đều nhìn lên trời thưởng
trăng.
Trăng đêm nay sương đầy vằng vặc, loang loáng
trên sân làm trời có vẻ như một sớm mai còn nằm trong sương chứ không phải là
đêm.
Tôi không thích nhâm nhi trà Tàu. Tôi lủi thủi
đi quanh quẩn trong sân để thích thú nhìn thấy bóng mình chập chờn đi theo dưới
đất.
Tôi nhìn trăng và cũng thấy trăng đi theo tôi.
Tôi đi tới đi lui khắp cả, vừa đi vừa nhìn lên trời, đi đâu tôi cũng thấy trăng
chậm rãi theo mình. (Ước gì suốt đời tôi được sống gần bên trăng xanh bình yên
đó nhỉ).
Một ngọn gió từ đâu trong đêm thổi hơi mạnh
làm cây lá chập chờn lung lay. Dì N. khẽ kêu lên với tôi:
– Trời ơi, cháu nhìn lá rơi kìa. Coi tội nghiệp
và đẹp không?
Không, tôi không thấy đẹp gì cả. Hồi đó, tôi
chưa biết nhìn lá, chưa biết thương màu lá, chưa biết buồn cho đời lá.
* * *
Khi biết thương màu lá, là biết mình đã lớn.
Tôi đã lớn. Nhưng không phải từ tốn nhẹ nhàng
lớn lên trong khu vườn địa đàng, mà lớn lên trong gió cát bụi mù giữa dòng đời
lang bạt. Tôi đã qua tuổi hai mươi, không phải qua trên hai tay chăm sóc của mẹ
hiền, mà qua suốt hành lang trắc trở của cuộc đời hai mặt dối lừa.
Tôi đã lớn… và tôi đã trở về. Không còn tuổi
nhỏ để leo hái những trái bàng cho hàm răng nhai ngon, mà giờ đây, suốt buổi
chiều tôi thẫn thờ lặng ngắm tàn lá thay màu. Trên cùng một khóm cây, trên cùng
một chiếc lá, mà những màu sắc đã dần đổi thay khác biệt. Đến mùa lá rụng, mùa
thu, chỉ còn một chút màu xanh non dại trên cành, lấm tấm lẻ loi trong màu nâu,
màu vàng, màu đỏ sẫm và màu chết úa… những màu sắc sống động kỳ diệu của loài
cây chan hòa tan loãng trong nhau, mắt mình nhìn chăm thật lâu, mình sẽ thấy
nhòa đi sau màn lệ mỏng cả một màu lá xôn xao rung động, từ đó, có lẽ mình mới
biết thích những bức tranh phong cảnh tuyệt tác của Monet, vì trong những tảng
màu nhạt nhòa đầy ánh sáng chan chứa với nhau đó, đã biến hình vĩ đại, đã gợi hứng
lớn lao cho tâm hồn mơ ước cùng thắm hòa với thiên nhiên nguồn đẹp vô ngần của
trái đất. Từ đó, có lẽ mình mới bồi hồi day dứt hơn vì một câu thơ ngắn mơ
màng: Rừng phong thu đã nhuộm màu quan san…
Từ đó… Từ lúc biết thương màu lá, là cho dù
vào một đêm thu, trăng có rực sáng trong lành vẫn không còn tìm được chú Cuội
ngồi gốc cây đa, chị Hằng cũng không thấy đâu trên trời. Mà ngay ở dưới trần
gian này… ôi thôi, biết bao nàng Hằng Nga cứ lần lượt thay nhau cười cợt đời
mình, không chịu múa khúc Nghê thường mà chỉ giẫm nhẹ gót chân vào lòng mình
nhói đau rồi tung bay mất hút.
Từ lúc biết thương màu lá, là không còn rước
đèn kéo quân đi trong sân hồn nhiên hát bài “Tết Trung Thu rước đèn đi chơi…”,
mà chỉ vang vang thăm thẳm trong tim nhạc khúc âu sầu của Đoàn Chuẩn. “Thu đi
cho lá vàng bay… lá rơi cho đám cưới về. Ngày mai người em nhỏ bé… ngồi trong
thuyền hoa… tình duyên đành lỡ…” và cho dù lá không rơi, đám cưới cũng về. Những
hôn lễ chẳng đợi mùa thu hay mùa xuân, những đám cưới choàng áo cô dâu cho những
người em nhỏ bé của mình hết em này đến em khác mà mình suốt đời làm chú rể với
mấy ngọn đèn đêm vất vưởng.
(Ch. của tình đầu ở thị trấn Buồn Muôn Thuở;
L. của giảng đường và thư viện mà có lần chúng ta vào đó không phải để tìm sách
đọc, chúng ta lật từng trang sách của hồn nhau; V. của những xoa dịu sẻ chia
trong một thời lo âu bất trắc… Và trên hết, sau hết, tôi biết trước rằng một
ngày kia, N. sẽ bẻ gãy ngọn cỏ chong chong của em để quên tất cả mà an lòng qua
cầu, rồi có lẽ tôi sẽ một lần về đó, một mình đi qua cây cầu nhỏ của em, khẽ
hát bài ca của một nhân vật trong đời Tam Quốc: “Cưỡi lừa qua cầu nhỏ… thương
tiếc khóm mai gầy…”. Cả N. nữa, cô bé đôi khi kéo dài “giờ ra chơi” cho đến chiều
tối, cũng có ngày em sẽ quên lược gương bỏ rớt đâu đó vào một thuở nào, vào một
ngày nào, vào một túi áo nào, để nhẫn vàng thay cho nhẫn cũ bạc màu thô sơ).
Thôi… một lời ca đã kéo tôi đi quá xa rồi. Bây
giờ tôi xin trở về trong khu vườn, vườn tôi hay vườn nhà ai cũng được.
Nửa đêm trăng, có nhiều bạn hữu. Mọi người đều
đã lớn, rượu và đồ nhậu thay cho bánh trà. Quỳnh hoa lan hương thoang thoảng,
rượu Bách Nhật say ngọt uống mềm môi. Người xưa Thu ẩm Hoàng Hoa tửu, ngày nay,
tôi được uống một chai la ve trong bầu không khí thân ái này là cũng thỏa mãn lắm
rồi.
Tôi và người thiếu nữ đi xa dần tiếng nói chuyện
cười đùa của người khác. Tôi và nàng đứng trước một hòn non bộ, lặng lẽ ngắm cảnh
núi non sông nước thu nhỏ lại như một chiếc hộp, mà vẫn gợi lên cả một bầu trời
bao la. Những hòn đá chồng chất bên nhau, lâu ngày mọc đầy rêu xanh, có những hốc
nhỏ, có những lùm cây trông không khác gì một hoang đảo thực sự, có vài mô hình
giả làm con đò neo bến, có cả lão già ngồi câu cá. Một chút đất đá, một chút
cây cỏ, một chút nước hòa hợp khéo léo trong một không gian nhỏ, chờ thời gian
dần qua, đến đêm nay trong màu trắng bàng bạc biến thành cả một vũ trụ có linh
hồn, một thế giới xa lánh tất cả phiền muộn để dành riêng cho ai đó.
Nhưng không dành riêng cho tôi và người thiếu
nữ. Vì khi tôi chỉ tay vào một tịch cốc nằm sâu trong núi, và hỏi:
– Em có thích ở đây với anh không?
Thiếu nữ hất mái tóc bối rối che lên má, nhưng
đã mỉm cười lắc đầu. Thế là từ đó, tôi biết tâm hồn tôi và người thiếu nữ, dần
dà sẽ chia xa. Mọi chuyện sẽ trở nên đơn giản và trọn vẹn từ một cái gật đầu.
Nhưng vì một cái lắc đầu, tôi sẽ trở thành một con ngựa chứng lưu lạc, mãi mãi
rông chạy hoang đàng.
Tôi biết. Dầu nàng thường thích những vòng
khói, và tôi đã thổi cả triệu vòng khói thuốc đeo vào tay nàng, nhưng những
vòng khói trắng mờ ấy sớm bay loãng, tan tành rồi hoàn toàn mất biệt khỏi đời
nàng. Từ đêm ấy, cả nàng và trăng đều lắc đầu với tôi. Từ đó, tôi sống quay cuồng
dưới mặt trời đỏ lửa. Tôi đã đủ trí khôn để biết rằng không phải mình đi đâu
trăng cũng đi theo, trăng ở lại muôn đời vì tiếng nói lạnh nhạt của nàng và
mình thì cứ ra đi, ra đi đi mãi mãi. (Ôi, thế thì có trí khôn làm chi).
Mọi người thấy đó. Đừng biết thương màu lá,
hãy ham hố nhai lấy trái ngon, nuốt cho hết vị ngọt dại khờ. Chứ đừng rộng rãi
tình cảm, thương cho ngọn lá yếu đuối hay tan tác trong vòm trời hoang mang
trăm lối.
Nhưng tôi đã trót là một người nhiệt tình rộng
lớn
Hoàng Ngọc Tuấn
No comments:
Post a Comment